Nghiên cứu chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner

Nghiên cứu chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner

Hội chứng Turner (TS) – Q96, gặp vào khoảng 1/1500 – 1/3000 trẻ sơ sinh gái và khoảng 3% thai gái [3; 4]. Nguyên nhân gây ra TS chủ yếu do thiếu 1 NST giới tính dạng 45,X; một số ít do đột biến mất đoạn NST X hoặc NST Y [10]. Người bị TS có các bất thường về hình thái, các dị tật nội quan và những rối loạn chức năng. Từ giai đoạn thai, siêu âm đã có thể phát hiện một số bất thường của TS như nang bạch huyết, dày da gáy, phù thai, dị tật tim, thận… Những rối loạn chức năng của TS ảnh hưởng tới nồng độ một số hormon và protein của quá trình thai nghén như HCG, uE3, AFP… Các dấu hiệu này được dùng để sàng lọc phát hiện thai
1.    Đối tượng nghiên cứu
30 thai phụ tuổi thai 14 – 22 tuần có một trong các dấu hiệu sau:
–    Siêu âm (+): thai có nang bạch huyết (NBH); dày da gáy > 5mm; phù thai…
–    Triple test (+): HCG ≥  2 MoM; AFP ≤ 0,7 MoM; uE3 ≤ 0,7 MoM.
2.    Phương pháp nghiên cứu
    Loại  hình  nghiên  cứu:  phương  pháp nghiên cứu ngang mô tả.
    Cỡ mẫu nghiên cứu: cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức
Ỉ 2    . p.q
1,96 2.0,67.0,33
     1    / 2             
có nguy cơ bị TS [5; 10].
Hiện nay trên thế giới, TS đã có thể được chẩn
n =    (. p)2=   (0,25.0,67 )2≈30
đoán và điều trị ngay từ giai đoạn thai. Phân tích NST kỳ giữa bằng băng G vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định TS. Những năm gần đây, với sự phát triển của sinh học phân tử đã xác định được các gen gây ra các biến đổi lâm sàng của TS, là cơ sở để tạo ra các ADN dò và ADN mồi với các trình tự đặc hiệu. Vì vậy, hiện nay một số kỹ thuật phân tử như FISH và PCR cũng được sử dụng để chẩn đoán xác định TS [3; 4; 7].
Ở Việt Nam, bệnh nhân TS thường được phát hiện muộn khi các biểu hiện đã nặng nề. Việc chẩn đoán trước sinh ở Việt Nam chủ yếu dựa vào phân tích NST từ tế bào ối nuôi cấy. Với mong muốn chẩn đoán sớm TS từ giai đoạn thai, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner” với mục tiêu:
Áp dụng phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang để chẩn đoán hội chứng Turner từ tế bào ối.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đó:
a = 0,05 tương ứng; Ỉ 2     = 1,96;  = 25%;
1   / 2
p = 0,67 dựa vào kết quả ngiên cứu trước [3]; q = 1 – p.
    Các bước tiến hành nghiên cứu
Xét nghiệm sàng lọc (siêu âm và triple test – định lượng AFP, HCG, uE3) phát hiện 30 thai có dấu hiệu nguy cơ của TS € Chọc hút dịch ối (10 – 15ml /1 thai phụ) € Mỗi mẫu ối chia 2 phần. Phần 1: nuôi cấy, phân tích NST kỳ giữa nhuộm băng G; Phần 2: FISH trên tế bào gian kỳ bằng đầu dò kép 13,18,21,X,Y
Mục tiêu: áp dụng phương pháp phân tích nhiễm sắc thể (NST) và phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) để chẩn đoán hội chứng Turner (TS) từ tế bào ối. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 30 thai phụ tuổi thai 14 – 22 tuần có nguy cơ cao sinh con TS dựa trên kết quả sàng lọc của siêu âm và triple test được chọc hút 15 ml dịch ối để thực hiện FISH trên nhân tế bào gian kỳ và phân tích NST ở kỳ giữa. Kết quả: kết quả FISH phù hợp với kết quả phân tích nhiễm sắc thể: – 12/30 mẫu có kết quả hội chứng Turner – 5/30 mẫu có kết quả nữ bình thường – 4/30 mẫu có kết quả hội chứng Down – 4/30 mẫu có kết quả nam bình thường – 5/30 mẫu có kết quả hội chứng Edward. 11/12 thai TS trên siêu âm có nang bạch huyết (NBH), kích thước nang lớn (trung bình 20,45mm), 9/11 NBH có vách ngăn. 12/12 thai TS đều có ít nhất 1 chỉ số vượt ngưỡng sàng lọc AFP ≤ 0,7 MoM, HCG ≥ 2 MoM, uE3 ≤ 0,7 MoM. Kết luận: kết quả phân tích nhiễm sắc thể băng G và FISH đều là tiêu chuẩn để chẩn đoán xác định thai TS. Phương pháp FISH không qua thời gian nuôi cấy cho kết quả nhanh sau 48 – 72h.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment