Nghiên cứu chức năng thận bằng xạ hình với tc-99m-dtpa ở bệnh nhân viêm thận bể thận mạn
Viêm thận bể thận mạn (VTBTM) là một bệnh mà tiến triển thường có các đợt kịch phát và hậu quả cuối cùng là dẫn đến suy thận mạn. Mức độ tổn thương của từng thận trong bệnh VTBTM có thể không giống nhau, vì vậy việc đánh giá chức năng từng thận là cần thiết để giúp cho các nhà lâm sàng quyết định hướng can thiệp, điều trị tích cực cho mỗi thận. Hiện nay y học hạt nhân đã ứng dụng kỹ thuật ghi hình chức năng thận với dược chất phóng xạ Tc – 99m – DTPA (Technetium – 99m – Diethylene triamine pentaacetic acid) để đánh giá hình thể và chức năng thận. Phương pháp này cho phép đánh giá hình ảnh động học của hệ tiết niệu, đánh giá chức năng từng thận dựa trên thông số mức lọc cầu thận và hình dạng thận. Tại Việt Nam, việc nghiên cứu chức năng từng thận ở bệnh nhân VTBTM chưa được tiến hành một cách đầy đủ. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu chức năng thận bằng xạ hình với Tc – 99m – DTPA ở bệnh nhân viêm thận bể thận main” với mục tiêu:
1. Đánh giá chức năng từng thận bằng xạ hình với Tc – 99m – DTPA ở bệnh nhân viêm thận bể thận mạn.
2. So sánh các phương pháp khác nhau trong xác định mức lọc cầu thận.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 39 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán xác định là VTBTM, điều trị tại khoa Thận – Tiết niệu bệnh viện Bạch Mai năm 2008 được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.
2. Phương pháp nghiên cứu
– Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, mô tả, cắt ngang.
– Các chỉ số nghiên cứu: nồng độ creatinin máu, mức lọc cầu thận (MLCT) tính theo độ thanh thải creatinin nội sinh (MLCT_cre), MLCT tính theo công thức Cockrof – Gault (MLCT_CG) và tính MLCT chung và từng bên theo xạ hình thận với Tc – 99m – DTPA (MLCT_xh).
Xử lý số liệu: số liệu được phân tích và xử lý theo phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm Stata 8.2.
Mục tiêu: đánh giá chức năng từng thận ở các bệnh nhân viêm thận bể thận mạn (BN VTBTM) bằng phương pháp ghi hình thận với Tc – 99m – DTPA. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 39 BN VTBTM, tuổi từ 27 – 87, có 19 nữ và 20 nam; Các BN được làm các xét nghiệm hoá sinh và ghi hình thận với Tc – 99m – DTPA để tính mức lọc cầu thận (MLCT) theo 3 phương pháp: xạ hình (MLCT_xh), độ thanh thải creatinin nội sinh (MLCT_cre) và tính theo công thức Cockroft – Gault (MLCT_CG). Kết quả: MLCT thận trái là 12,7 ml/phút (5,9 – 27,5), thận phải là 12,2 ml/phút (5,0 – 27,9). MLCT tính theo cả 3 phương pháp đều tương quan chặt với hàm lượng creatinin máu, trong đó MLCT_xh có độ chính xác cao nhất. Kết luận: xạ hình thận với Tc – 99m – DTPA cho phép tính MLCT từng thận với độ chính xác cao hơn độ thanh thải creatinin nội sinh hoặc tính theo công thức Cockroft – Gault.
Mục tiêu: đánh giá chức năng từng thận ở các bệnh nhân viêm thận bể thận mạn (BN VTBTM) bằng phương pháp ghi hình thận với Tc – 99m – DTPA. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 39 BN VTBTM, tuổi từ 27 – 87, có 19 nữ và 20 nam; Các BN được làm các xét nghiệm hoá sinh và ghi hình thận với Tc – 99m – DTPA để tính mức lọc cầu thận (MLCT) theo 3 phương pháp: xạ hình (MLCT_xh), độ thanh thải creatinin nội sinh (MLCT_cre) và tính theo công thức Cockroft – Gault (MLCT_CG). Kết quả: MLCT thận trái là 12,7 ml/phút (5,9 – 27,5), thận phải là 12,2 ml/phút (5,0 – 27,9). MLCT tính theo cả 3 phương pháp đều tương quan chặt với hàm lượng creatinin máu, trong đó MLCT_xh có độ chính xác cao nhất. Kết luận: xạ hình thận với Tc – 99m – DTPA cho phép tính MLCT từng thận với độ chính xác cao hơn độ thanh thải creatinin nội sinh hoặc tính theo công thức Cockroft – Gault.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích