Nghiên cứu chức năng thất trái bằng siêu âm -Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp
Suy giảm chức năng thất trái sau nhồi máu cơ tim (NMCT) là yếu tố quan trọng trong tiên lượng bệnh nhân NMCT. Đánh giá chính xác chức năng thất trái giúp thầy thuốc tiên lượng bệnh, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị bệnh.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy siêu âm tim là một thăm dò không xâm lấn, có giá trị tốt trong đánh giá cấu trúc cũng như chức năng toàn bộ và từng vùng cơ tim ở các bệnh nhân NMCT [2].
Cho đến nay để đánh giá chức năng thất trái thường sử dụng một số thông số trên siêu âm (SA) TM, 2D và Doppler. Gần đây nhiều tác giả đã đề cập đến vai trò của siêu âm – Doppler mô cơ tim (Tissue Doppler Imaging – TDI) để đánh giá chức năng tim trong nhiều bệnh lý tim mạch.
Ở nước ta, đánh giá chức năng tim bằng siêu âm – Doppler mô cơ tim còn là một vấn đề khá mới, chưa có nghiên cứu nào về vai trò của phương pháp siêu âm Doppler mô cơ tim trong bệnh NMCT. Đề tài được tiến hành với mục tiêu:
1. Xác định sự biến đổi chức năng thất trái bằng siêu âm – Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp.
2. Đánh giá mối tương quan giữa các thông số đánh giá chức năng thất trái trên siêu âm – Doppler mô cơ tim với một số thông số siêu âm – Doppler khác.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
– Nhóm bệnh: gồm 55 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán xác định NMCT cấp (theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1971 [2]). Không lựa chọn vào nghiên cứu các bệnh nhân: có bệnh nội khoa nặng kèm theo, có rối loạn dẫn truyền nhĩ – thất, rung nhĩ, rối loạn nhịp khác, nhịp chậm < 50 chu kỳ/phút hay nhanh > 100 chu kỳ/phút, có các bệnh lý màng ngoài tim, van tim (hở van hai lá, van động mạch chủ mức độ vừa trở lên trên siêu âm Doppler), bệnh nhân không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
– Nhóm chứng: gồm 30 người khoẻ mạnh có tuổi và giới tương đương với nhóm bệnh. Tất cả các đối tượng nghiên cứu này được khám lâm sàng cẩn thận trước khi đưa vào nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Các bước tiến hành
Nhóm bệnh: tất cả các bệnh nhân được hỏi bệnh, khám lâm sàng và làm bệnh án theo mẫu nghiên cứu riêng. Làm một số thăm dò cần thiết (ĐTĐ 12 chuyển đạo, xét nghiệm máu cơ bản, định lượng các enzym đặc hiệu…). Chẩn đoán xác định NMCT. Siêu âm tim TM, 2D, Doppler và siêu âm Doppler – mô cơ tim theo mẫu nghiên cứu.
Nhóm chứng: các đối tượng nghiên cứu được hỏi bệnh, khám lâm sàng, ghi điện tâm đồ, chụp X quang tim – phổi. Xác định không có bệnh lý về tim mạch. Làm siêu âm tim TM, 2D, Doppler và Doppler mô cơ tim theo mẫu
nghiên cứu.
Phương pháp thăm dò siêu âm tim
Các thông số Doppler dòng chảy qua van hai lá:
– Vận tốc tối đa của sóng đổ đầy đầu tâm trương (E).
– Vận tốc tối đa của sóng đổ đầy cuối tâm trương (A).
– Tỷ lệ E/A.
Siêu âm – Doppler mô cơ tim (Tissue Doppler Imaging: TDI)
Ghi ở 4 vị trí của vòng van hai lá: vách liên thất, thành bên thất trái (mặt cắt 4 buồng tim), thành trước và thành dưới thất trái (mặt cắt 2 buồng tim) – hình 1. Các thông số của siêu âm – Doppler mô cơ tim bao gồm:
– Vận tốc tối đa của sóng tâm thu (Sm).
– Vận tốc tối đa của sóng đầu tâm trương (Em).
– Vận tốc tối đa của sóng cuối tâm trương (Am).
Từ các thông số trên chúng tôi tính: tỷ lệ Em/Am và E/Em.
Mục tiêu: xác định sự biến đổi chức năng thất trái bằng siêu âm – Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân
nhồi máu cơ tim cấp và tìm hiểu mối tương quan giữa các thông số đánh giá chức năng thất trái trên siêu âm – Doppler mô cơ tim với một số thông số siêu âm – Doppler khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: siêu âm – Dopler mô cơ tim đánh giá chức năng thất trái tiến hành trên 50 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) và 30 người bình thường (ghi tại 4 vị trí ở vòng van hai lá gồm thành bên, vách liên thất, thành dưới và thành trước thất trái). Kết quả: so với nhóm chứng, ở bệnh nhân NMCT cấp trên siêu âm Doppler mô cơ tim có giảm vận tốc tối đa sóng tâm thu Sm (6,2 ± 1,64 cm/s sv 7,6 ± 1,33cm/s, p < 0,001), giảm vận tốc sóng đầu tâm trương Em (6,19 ± 2,12 cm/s so với 8,81 ± 2,58 cm/s, p < 0,001), tăng tỷ lệ E/Em (11,53 ± 6,25 so với 7,30 ± 2,27; p < 0,001). Có tương quan chặt chẽ giữa tỷ lệ Em/Am và tỷ lệ E/A (ở 4 vị trí đo r = 0,7 – 0,92; p < 0,001), giữa vận tốc sóng Sm với phân số tống máu EF (ở 4 vị trí đo r = 0,63 – 0,76; p < 0,001). Kết luận: siêu âm Doppler mô cơ tim là phương pháp siêu âm đơn giản, hữu ích trong đánh giá chức năng thất trái ở bệnh nhân NMCT cấp.
Mục tiêu: xác định sự biến đổi chức năng thất trái bằng siêu âm – Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân
nhồi máu cơ tim cấp và tìm hiểu mối tương quan giữa các thông số đánh giá chức năng thất trái trên siêu âm – Doppler mô cơ tim với một số thông số siêu âm – Doppler khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: siêu âm – Dopler mô cơ tim đánh giá chức năng thất trái tiến hành trên 50 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) và 30 người bình thường (ghi tại 4 vị trí ở vòng van hai lá gồm thành bên, vách liên thất, thành dưới và thành trước thất trái). Kết quả: so với nhóm chứng, ở bệnh nhân NMCT cấp trên siêu âm Doppler mô cơ tim có giảm vận tốc tối đa sóng tâm thu Sm (6,2 ± 1,64 cm/s sv 7,6 ± 1,33cm/s, p < 0,001), giảm vận tốc sóng đầu tâm trương Em (6,19 ± 2,12 cm/s so với 8,81 ± 2,58 cm/s, p < 0,001), tăng tỷ lệ E/Em (11,53 ± 6,25 so với 7,30 ± 2,27; p < 0,001). Có tương quan chặt chẽ giữa tỷ lệ Em/Am và tỷ lệ E/A (ở 4 vị trí đo r = 0,7 – 0,92; p < 0,001), giữa vận tốc sóng Sm với phân số tống máu EF (ở 4 vị trí đo r = 0,63 – 0,76; p < 0,001). Kết luận: siêu âm Doppler mô cơ tim là phương pháp siêu âm đơn giản, hữu ích trong đánh giá chức năng thất trái ở bệnh nhân NMCT cấp.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích