Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi kèm nổi tụy-ruột trong bệnh sỏi tụy
Luận án tiến sĩ y học Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi kèm nổi tụy-ruột trong bệnh sỏi tụy.Viêm tụy mạn là một bệnh lý khá phổ biến ở các nước phát triển, song cũng không phải là hiếm gặp ở các nước đang phát triển. Quá trình viêm tuy mạn thường dẫn đến hiện tượng can xi hoá gây ra sỏi tuy. Sự hiện diện của những viên sỏi trong hệ thống ống tuy được gọi là sỏi tuy. Trước đây một số tác giả cho rằng sỏi tuy là một bệnh độc lập, nhưng một số khác lại cho rằng sỏi tuy chỉ là một biến chứng của viêm tuỵ mạn do rượu mà thôi. Sỏi tuy đã được biết đến từ rất lâu, năm 1664 Graff lần đầu tiên mô tả sỏi tuỵ, sau đó Morgagni (1765), Cowley (1778) đã tìm thấy sỏi tuy qua mỗ từ thì và năm 1883 Capparelli đã tiến hành mổ lấy sỏi.
Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau theo nước, từng vùng và có xu hướng tăng lên ở nhiều nước [94], [24]. Viêm tuỵ mạn và sỏi tuy có liên quan chặt chẽ với nhau. Tại hội thảo về bệnh lý tụy tổ chức ở Rome năm 1988 người ta đã đi đến thống nhất rằng sỏi tuy là một dấu hiệu đặc trưng của viêm tuỵ mạn can xi hoá, một trong ba thể của viêm tuy mạn [125]. Như vậy sỏi tuy không chỉ là một tiêu chuẩn chẩn đoán xác định viêm tuỵ mạn mà còn là yếu tố giúp tiên lượng mức độ nặng của bệnh ngay cả khi các triệu chứng lâm sàng do suy giảm chức năng tuy còn chưa xuất hiện [129].
Trải qua một thời gian dài những hiểu biết về bệnh lý này còn nhiều hạn chế. Trong những năm giữa và cuối thế kỷ 20, đã có rất nhiều nghiên cứu về các khía cạnh của bệnh lý này và nhiều vấn đề đã được làm sáng tỏ hơn. Cơ chế bệnh sinh của sỏi tuy cũng được hiểu biết cặn kẽ hơn với các công trình của Sarles H, Reber H.A… Do bệnh cảnh lâm sàng không có tính đặc hiệu nên việc chẩn đoán sỏi tuy chủ yếu vẫn chỉ dựa vào các thăm dò hình ảnh. Đặc biệt các phương pháp như siêu âm, siêu âm nội soi, chụp cắt lớp vi tính, chụp mật tuy ngược dòng qua nội soi, chụp cộng hưởng từ cho phép không chỉ xác định chính xác sỏi tụy mà còn thấy được tình trạng ống tụy, nhu mô tụy và những ảnh hưởng tới các tạng xung quanh [14], [79], [80], [93], [100], [103]. Trên cơ sở đó các thấy thuốc có thể hồi cứu lại các triệu chứng lâm sàng dễ bị bỏ qua ở bệnh nhân sỏi tuy và chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp.
Tuy nhiên, việc điều trị viêm tuỵ mạn và sỏi tuy còn gặp nhiều khó khăn bởi tổn thương nhu mô tuy trong bệnh lý này là những tổn thương không hồi phục. Điều trị bệnh đòi hỏi sự kết hợp nội-ngoại khoa trong đó điều trị nội khoa đóng vai trò rất quan trọng. Phẫu thuật được đặt ra với một số chỉ định như: khi đau nhiều mà điều trị nội khoa không hiệu quả, khi có tắc nghẽn ở hệ thống ống tuy… Hiện nay có rất nhiều phương pháp phẫu thuật để điều trị sỏi tuy bao gồm nhóm các phẩu thuật dẫn lưu-giảm áp; nhóm các phẫu thuật có cất nhu mô tuy; nhóm các phẫu thuật diệt thần kinh để trừ đau [139].
Ở Việt nam, cho tới nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh viêm tụy mạn và sỏi tụy, hầu như chưa có công trình nào đầy đủ về mặt dịch tễ học. Song qua một số báo cáo có thể thấy viêm tụy mạn và sỏi tụy không phải là một bệnh hiếm gặp ở nước ta. Rất nhiều bệnh nhân bị sỏi tụy nhưng ban đầu được chẩn đoán và điều trị theo hướng một bệnh lý khác như viêm loét dạ dày tá tràng, sỏi túi mật… Từ đầu thập kỷ 90 tới nay đã có một số báo cáo về lâm sàng, cận lâm sàng trong chẩn đoán và về các phương pháp điều trị ngoại khoa đối với sỏi tụy [9], [12], [13], [19], [17], [5], [2], [10]. Vì bệnh lý này có rất nhiều phương pháp điều trị phẫu thuật nên việc chọn lựa chỉ định và phương pháp mổ vẫn còn là vấn đề cần thảo luận.
Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi kèm nổi tụy-ruột trong bệnh sỏi tụy” nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh sỏi tụy.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi kèm nổi tụy-ruột.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com