Nghiên cứu đặc điềm cận lâm sàng bệnh viêm bì cơ tại bệnh viện da liễu Trung Ương

Nghiên cứu đặc điềm cận lâm sàng bệnh viêm bì cơ tại bệnh viện da liễu Trung Ương

Nghiên cứu thực hiện trên 42 bệnh nhân điều trị nội trú được chẩn đoán xác định là viêm bì cơ nhằm khảo sát đặc điểm cận lâm sàng bệnh viêm bì cơ tại Bệnh viên Da liễu Trung ương từ tháng 6/2007 đến tháng 6/2011. Kết quả cho thấy 71,5% bệnh nhân có tăng men cơ CK (Creatine kinase), 85,7 % bệnh nhân tăng AST (GOT-glutamate oxaloacetat transaminase), 57,1% bệnh nhân tăng ALT (GPT-glutamate pyruvat transaminase). 92,3% bệnh nhân có máu lắng tăng. Kết quả sinh thiết 15/42 bệnh nhân thấy có 46,7% số bệnh nhân được sinh thiết có hình ảnh của viêm bì cơ điển hình, 33,3% có hình ảnh của bệnh hệ thống hay tổ chức liên kết. Chỉ có một bệnh nhân duy nhất trong số bệnh nhân nghiên cứu được làm xét nghiệm điện cơ và kết quả có sự tổn thương kiểu hỗn hợp nhiều dây thần kinh ngoại biên. Xét nghiệm đo nồng độ CK trong huyết thanh có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hỗ trợ chẩn đoán, sinh thiết có độ nhạy không cao, và chỉ dương tính ở gần 1A số bệnh nhân. Ngoài ra tốc độ máu lắng tăng, sự gia tăng nồng độ men gan cũng rất thường gặp trong bệnh viêm bì cơ, chủ yếu là tăng AST (GOT).

Bệnh viêm bì cơ là một bệnh hệ thống, biểu hiện chủ yếu ở da và cơ. Có nhiều giả thuyết về căn nguyên của bệnh nhưng cho đến nay hầu như bệnh được thống nhất xếp vào nhóm bệnh tự miễn trên một cơ địa đặc biệt. Bệnh khởi phát ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng thường gặp ở lứa tuổi thiếu niên (trước 10 tuổi) hoặc ở người lớn từ 40 – 60 tuổi. Tỉ lệ mắc bệnh ở Mỹ là 5 trường hợp/1 triệu dân năm [1], Trong khi ở Úc tỉ lệ này là 7,4 trường hợp/1 triệu dân/ năm [2], Ở Việt Nam chưa có số liệu về tỉ lệ mắc bệnh viêm bì cơ, và số lượng các nghiên cứu về viêm bì cơ còn rất hạn chế.

Việc chẩn đoán và điều trị bệnh viêm bì cơ còn gặp nhiều khó khăn. Đặc điểm lâm sàng của bệnh đa dạng, mặc dù các biểu hiện ở da và cơ là hay gặp nhất, nhưng nhiều khi cũng khó chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác, về cận lâm sàng, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh chính là kết quả xét nghiệm sinh thiết cơ, tuy vậy, việc này rất khó thực hiện. Thực tế lâm sàng, để chẩn đoán xác định cần phải chủ yếu dựa vào các xét nghiệm khác có độ đặc hiệu và độ nhạy cao như: các enzym sinh ra từ quá trình chuyển hóa cơ như creatinine kinase (CK) – là men có độ đặc hiệu cao nhất đối với viêm bì cơ, aldolase, aspartate aminotransferase (AST), alanine aminotransferase (ALT); điện cơ (electromyography-EMG); tự kháng thể… Do vậy, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu khảo sát đặc điểm cận lâm sàng của bệnh viêm bì cơ để giúp các nhà lâm sàng có định hướng tốt hơn trong chẩn đoán và điều trị bệnh.

II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Đối tượng

Hồ sơ bệnh án của tất cả bệnh nhân được chẩn đoán là viêm bì cơ được điều trị nội trú tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng

6/2007 đến hết tháng 6/2011.

2. Phương pháp

Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả. Mẫu nghiên cứu là toàn bộ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân Viêm bì cơ được điều trị nội trú tại Bệnh viện Da liễu Trung ương trong thời gian từ tháng 6/2007 đến hết tháng 6/2011. số liệu được phân tích trên phần mềm thống kê SPSS 16.0.

III. KÉT QUẢ

1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Tổng cộng trong 4 năm, từ tháng 6/2007 đến hết tháng 6/2011, tại bệnh viện Da liễu Trung Ương có 42 bệnh nhân viêm bì cơ điều trị nội trú. Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 44,2 ± 20,7, trong đó nhỏ nhất là 4 tuổi, lớn nhất là 83 tuổi.

Trong tổng số bệnh nhân, 69% ở lứa tuổi từ 40 trở lên; 16,7% thuộc nhóm tuổi 20¬39. Lứa tuổi dưới 20 có 6 bệnh nhân, chiếm 14,3%, trong đó 5 bệnh nhân dưới 10 tuổi (chiếm 11,9%). Bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ nữ (54,8%)/nam (45,2%) là 1,2/1. Có 35,7% số bệnh nhân nghiên cứu làm nghề làm ruộng; 19,1% thuộc nhóm hưu trí; 16,7% là học sinh sinh viên; 16,6% thuộc nhóm lao động tự do.

Trong số 42 bệnh nhân, có 33 bệnh nhân (78,6%) bị viêm bì cơ vào viện lần đầu, 9 bệnh nhân (21,4%) đã từng được điều trị bệnh viêm bì cơ trước đó, 2 bệnh nhân có bệnh ung thư kèm theo (1 ung thư vú, 1 ung thư vòm họng)

Trung bình ngày điều trị nội trú tại bệnh viện là 29,6 ± 15,5 ngày, trong đó ngắn nhất là 4 ngày, dài nhất là 56 ngày. Có 64,3% bệnh nhân phải nằm viện điều trị > 3 tuần.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment