Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát tại bệnh viện nhi Trung Ương

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát tại bệnh viện nhi Trung Ương

Xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát hay xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch (Idiopathic or Im- mune  Thrombocytopenic  Pupura  –  ITP)  là  một bệnh rối loạn về cầm máu ở trẻ em và người lớn có liên quan đến tiểu cầu ở máu ngoại bị phá huỷ quá nhiều do miễn dịch. Những nghiên cứu trước đây đã cho thấy ITP là bệnh hay gặp nhất trong các bệnh rối loạn cầm máu, tỷ lệ lưu hành khoảng 1/10.000 trẻ, bệnh xảy ra quanh năm nhưng hay gặp vào cuối đông và đầu xuân [2]. Tỷ lệ nam/nữ có sự thay đổi giữa các nhóm tuổi. Một số yếu tối thuận lợi được đề cập đến là tiền sử nhiễm khuẩn, nhiễm virus, nhiễm khuẩn hô hấp trên với tần suất hay gặp nhất ở nhóm tuổi từ 1tuổi đến 10 tuổi (60,2%) [4]. Ngoài ra sự  nhiễm lạnh, nhiễm  độc, mệt mỏi hoặc thay đổi thời tiết cũng là yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh [1]. ITP có thể xảy ra cấp tính hoặc mạn tính. Theo V. Bianchette có khoảng 20% ITP cấp tính chuyển  sang mạn  tính [3], còn theo Nguyễn Công Khanh tỷ lệ chuyển sang mạn tính vào khoảng 10%. Chẩn đoán ITP chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm sàng, kết hợp với xét nghiệm về số lượng tiểu  cầu trong máu  ngoại vi, tuỷ đồ và  xét
01/01/2003 đến 31/12/2004.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: Có hội chứng xuất huyết; Có biểu hiện thiếu máu theo mức độ xuất huyết; Không có gan, lách, hạch to; Số lượng tiểu cầu trong máu ngoại vi < 150 G/l; Không có bất thường về số lượng và công thức bạch cầu; Không mắc các bệnh cấp và mạn tính khác có thể là nguyên nhân làm giảm tiểu cầu như: bạch cầu cấp, nhiễm khuẩn, cơ địa suy giảm miễn dịch, bệnh hệ thống…
– Bệnh nhi được phân nhóm tuổi và mức độ giảm tiểu cầu theo qui ước của nhóm nghiên cứu bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em giữa các lục địa (ICIS: Intercontinental Child- hood  ITP  Study  Group):  Nhóm tuổi: từ  trên 3 tháng đến < 12 tháng; ≥ 12 tháng đến 10 tuổi; trên 10 tuổi đến < 16 tuổi. Mức độ giảm tiểu cầu: Giảm nặng khi tiểu cầu dưới 20G/l, giảm vừa khi tiểu cầu từ 20G/l đến 50 G/l, giảm nhẹ khi tiểu cầu trên 50 G/l.
2.    Phương pháp
Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu.
Từ 01/01/2003 – 31/08/2004: Nghiên cứu hồi cứu.nghiệm đông máu, chảy maú khác. Tuy ITP là bệnh
Từ 01/09/2004 – 31/12/2004: Nghiên cứu tiến cứu. hay gặp nhất trong số những bệnh rối loạn cam nhập viện, nhưng những nghiên cứu về dịch te, máu moi
3.    Xử lý số liệu
liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng còn ít hoặc còn có sự không thống nhất giữa các
Theo chương trình thống kê y học SPSS 13.0 trên phần mềm máy vi tính
Bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát (ITP) là một bệnh phổ biến ở trẻ em Việt Nam Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng, mối liên quan giữa lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh ITP ở em. Đối tượng: 579 bệnh nhi trên 3 tháng tuổi đến dưới 16 tuổi bị ITP được điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, từ 01/01/2003 đến 31/12/2004. Phương pháp: Mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu. Kết quả: Gồm 191 trẻ > 3 tháng – < 12 tháng (33,3%); 293 trẻ từ 1 tuổi – 10 tuổi (50,6%) và 95 trẻ từ >10 tuổi – <16 tuổi (16,4%). Tỷ lệ nam/nữ cao nhất ở nhóm tuổi >3 tháng đến < 12 tháng (1,88%) và giảm dần theo nhóm tuổi tăng lên, (P < 0,001). Bệnh xảy ra nhiều hơn vào tháng 9, 10, 11 với yếu tố thuận lợi là nhiễm khuẩn hô hấp trên cấp tính (32,2%). Xuất huyết dưới da gặp với tỷ lệ cao nhất 557 (96,2%) trường hợp, xuất huyết nội sọ gặp ở 7 trẻ (1,2%). Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng lâm sàng có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi. Mức độ thiếu máu không tương xứng với sự giảm của số lượng tiểu cầu. Kết luận: Xuất huyết giảm tiểu cầu đặc điểm xuất huyết phụ thuộc vào tuổi và số lượng tiểu cầu.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment