Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính khớp háng ở bệnh nhân có chỉ định thay khớp háng do hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính khớp háng ở bệnh nhân có chỉ định thay khớp háng do hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi.Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi (HTVKCXĐ) là một bệnh lý chỉnh hình phổ biến. Đồng thời là nguyên nhân ngày càng tăng của chứng rối loạn cơ xương, gây ra thách thức lớn về chẩn đoán và điều trị [1].
Bệnh đặc trưng bởi sự hủy hoại tế bào xương do nghẽn mạch, tổn thương lớp nội mạc, rối loạn chuyển hoá mỡ [2]. Ban đầu bệnh nhân thường không có triệu chứng. Sau đó, xuất hiện các vùng thưa xương, ổ khuyết xương khu trú chỏm xương đùi, tiếp theo là gãy xương dưới sụn. Cuối cùng gây xẹp chỏm xương đùi, thoái hoá thứ phát và phá huỷ khớp háng, đòi hỏi phải thay thế một phần hoặc toàn bộ khớp háng, thường là trước 50 tuổi [3].
Tỷ lệ mắc bệnh ở nam nhiều hơn nữ, theo Jeanne (2006) tỷ lệ nam/nữ là 8/1, theo Michael A (2008) là 4/1, lứa tuổi thường gặp là 30 đến 50 tuổi [4], [2]. Hiện nay, HTVKCXĐ có xu hướng ngày càng tăng. Tại Mỹ có khoảng 10000 đến 20000 ca được phát hiện hằng năm và chiếm khoảng 5-18% trong 5000 ca thay khớp háng mỗi năm [2],[5].
Tại Việt Nam, theo tổng kết tình hình bệnh tật tại khoa Cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai trong 10 năm (1991-2000) của Trần Ngọc Ân, Nguyễn Vĩnh Ngọc và cộng sự, thì bệnh này đứng thứ 14 trong 15 bệnh khớp hay gặp (chiếm 2,24%), và bệnh có xu hướng ngày càng tăng lên [6],[7]. HTVKCXĐ cũng chiếm tỷ lệ lớn trong số các trường hợp thay khớp háng tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội: tại Bệnh viện Xanh Pôn theo Nguyễn Đắc Nghĩa là 80% [8], BV học viện quân y 103 là 14,5% (theo Trần Đình Chiến) [9], BV 108 là 18% (theo Nguyễn Tiến Bình) [10].
Thay khớp háng nhân tạo là can thiệp ngoại khoa được lựa chọn cuối cùng nhưng cũng là biện pháp điều trị triệt để nhất đối với HTVKCXĐ. Hiện nay, phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một phẫu thuật thường quy ở một số bệnh viện lớn tại Việt Nam. Tuy nhiên giá thành khớp giả còn cao, phẫu thuật thay khớp háng khá tốn kém, đặc biệt nếu sử dụng robot định vị. Vì vậy để giảm bớt chi phí phẫu thuật đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức cho phẫu thuật viên, cũng như hạn chế tối đa các biến chứng sau mổ đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết. Để làm được điều đó chúng tôi đã tiến hành đo đạc trước mổ các kích thước và góc của ổ cối, cổ chỏm xương đùi gọi chung là các chỉ số khớp háng trên phim CLVT đa dãy tái tạo đa mặt phẳng. Thực tế có thể đo được một số chỉ số khớp háng trên phim chụp X-quang hoặc trên phim cộng hưởng từ (CHT). Tuy nhiên chúng tôi lựa chọn CLVT do có nhiều ưu điểm hơn, như thời gian chụp nhanh, độ chính xác cao, đơn giản, rẻ tiền và phổ biến hơn.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính khớp háng ở bệnh nhân có chỉ định thay khớp háng do hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi”, nhằm hai mục tiêu:
1. Phân tích đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi trên bệnh nhân có chỉ định thay khớp háng.
2. Đánh giá các chỉ số khớp háng trên cắt lớp vi tính của bệnh nhân hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi.