NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ 1,5TESLA VÀ GIÁ TRỊ CÁC CHUỖI XUNG KHUẾCH TÁN VÀ TƯỚI MÁU

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ 1,5TESLA VÀ GIÁ TRỊ CÁC CHUỖI XUNG KHUẾCH TÁN VÀ TƯỚI MÁU

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ 1,5TESLA VÀ GIÁ TRỊ CÁC CHUỖI XUNG KHUẾCH TÁN VÀ TƯỚI MÁU TRONG CHẨN ĐOÁN NHỒI MÁU NÃO CẤP

NGUYỄN DUY TRINH, PHẠM MINH THÔNG Khoa Chẩn đoán hình ảnh – BV Bạch Mai Hà Nội LÊ VĂN THÍNH – Khoa Thần kinh – BV Bạch Mai

 TÓM TẮT

Mục tiêu: 1. Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ nhồi máu não cấp tính. 2. Đánh giá giá trị của các chuỗi xung khuyếch tán (DW) và tưới máu (PW) trong chẩn đoán và tiên lượng nhồi máu não cấp. Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 1 năm 2012, chúng tôi đã nghiên cứu trên 46 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não sớm (≤6h) tại BV Bạch Mai. Tất cả BN này đều được chụp CHT não khi vào viện với quy trình chẩn đoán nhồi máu não cấp bao gồm các chuỗi xung (FLAIR, T2*, DW, TOF và Perfusion), được điều trị tại BV Bạch Mai và được chụp CHT kiểm tra lại trước 24h. Các thông số CBF, CBV, MTT, TTP được tính toán trên phần mềm Perfusion MRI trên máy. Tính toán thể tích vùng nhồi máu trên DW và vùng bất thường trên các bản đồ màu trên PW. Các thể tích này được so sánh với thể tích nhồi máu cuối cùng trên CHT lần 2. Kết quả: Thời gian trung bình từ khi đột quỵ tới khi chụp là 162 ± 125 phút. Tổn thương trên lều tiểu não là thường gặp (42/46 = 91,3%), thuộc động mạch não giữa là chủ yếu (74,4%), 56,5% trường hợp có tắc mạch trên xung mạch TOF. Độ nhạy và độ đặc hiệu chẩn đoán nhồi máu não của DW lần lượt là W là 90,2%, độ đặc hiệu 100%, của PW là 85,4% và 75%. Với các BN có nhồi máu >2cm3, độ nhạy của PW là 100%. Đối với các BN không có vùng bất tương xứng (mismatch) giữa PW và DW, hoặc những BN có mismatch và được điều trị tái thông lòng mạch, thể tích vùng nhồi máu cuối cùng tương đương thể tích trên DW lần 1, ngược lại đối với những BN có mismatch và không được tái thông lòng mạch, thể tích vùng nhồi máu cuối cùng tương đương với thể tích trên bản đồ PW, lớn hơn trên DW lần 1, các sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 4. Kết luận: Vùng nhồi máu thực sự (lõi) là vùng quan sát thấy trên DW, vùng nguy cơ là vùng không quan sát thấy trên DW nhưng giảm tưới máu trên PW. DW và PW có vai trò lớn trong chẩn đoán và tiên lượng vùng nhồi máu não.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment