Nghiên cứu đặc điểm karyotyp của trẻ down và karyotyp của bố mẹ
Hội chứng Down thường gặp trong các hội chứng có biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể (NST) ở trẻ sơ sinh còn sống và nguyên nhân đã được biết có liên quan đến tuổi của người mẹ. Tuy nhiên, những cặp bố mẹ mang NST chuyển đoạn cân bằng có thể sinh ra những đứa con mắc hội chứng Down. Mục tiêu: (1) Mô tả đặc điểm karyotyp của trẻ Down và karyotyp của bố mẹ. (2) Đưa ra những lời khuyên ở những cặp bố mẹ đã sinh con mắc hội chứng Down. Đối tượng và phương pháp: 100 trẻ Down và 100 cặp bố mẹ được xét nghiệm NST bằng phương pháp nuôi cấy bạch cầu lympho máu ngoại vi. Kết quả và kết luận: 91% là trisomi 21, 6% là thể chuyển đoạn và 3% là thể khảm. 99% cặp bố mẹ có karyotyp bình thường, 1% cặp bố mẹ (người bố) mang NST chuyển đoạn cân bằng và nguy cơ sinh ra những đứa con mắc hội chứng Down là 100%.
Hội chứng Down thường gặp trong các hội chứng có biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể (NST) ở trẻ sơ sinh còn sống. 1866 John Langdon Down là người đầu tiên mô tả ở một số trẻ em chậm phát triển trí tuệ có biểu hiện về hình thái như mặt tròn phẳng, khe mắt xếch, nếp quạt, gốc mũi tẹt và có những bất thường về nếp gấp ở lòng bàn tay. 1959 Lejeune đã phát hiện ở những đứa trẻ mắc hội chứng Down có 47 NST, thừa 1 NST số 21. Vì vậy hội chứng Down còn được gọi dưới một cái tên khác là trisomi 21. 1960 Polani và cộng sự đã báo cáo một trường hợp mắc hội chứng Down, nhưng kết quả xét nghiệm NST ở bệnh nhân này có 46 NST và NST số 21 thừa được gắn trên một NST thuộc nhóm D (chuyển đoạn D/G), karyotyp là 46, XX,- D,+t (Dq;21q). Nguyên nhân gây nên hội chứng Down trong nhiều năm vẫn còn là điều bí ẩn và đã được các nhà di truyền học đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau. Nhưng giả thuyết đã được thừa nhận là do tuổi của bố mẹ, đặc biệt là tuổi cua người mẹ cao có liên quan đến sinh con mắc hội chứng Down. Trong những năm gần đây với sự tiến bộ về kỹ thuật y học nói chung và ngành di truyền học nói riêng đã phát hiện ở những cặp bố mẹ có biểu hiện rối loạn NST, đặc biệt là mang NST chuyển đoạn cân bằng có liên quan đến việc sinh ra những đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, trong đó có những đứa trẻ mắc hội chứng Down. Vì vậy đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm karyotyp của trẻ Down và karyotyp của bố mẹ.
2. Đưa ra những lờ khuyên di truyền ở những cặp bố mẹ đã sinh con mắc hội chứng Down.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng số 100 trẻ em (từ 1 ngày tuổi đến 10 tuổi) đã được chẩn đoán lâm sàng là mắc hội chứng Down từ viện Nhi Trung Ương, khoa Nhi của các bệnh viện Bạch Mai, SaintPaul và 100 cặp bố mẹ của 100 trẻ Down này được xét nghiệm NST tại bộ môn Y Sinh học – Di truyền, trường Đại học Y Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Nuôi cấy tế bào bạch cầu Lympho máu ngoại vi theo phương pháp của Hungeford D.A.(1965) [3]. Lấy 2ml máu tĩnh mạch cho vào ống ly tâm vô trùng và đã được tráng bằng heparin rồi đậy bằng nút cao su. Các bước tiến hành nuôi cấy được thực hiện trong điều kiện vô trùng.
Lấy 8 giọt máu toàn phần cho vào lọ nuôi cấy thể tích 60 ml có chứa 6ml môi trường nuôi cấy (F.10 hoặc F.12), 2 ml huyết thanh bê và 0,1 ml P.H.A (Phytohemaglutinin), đậy nút cao su rồi để trong tủ ấm 370C thời gian 72 giờ. Giờ thứ 70 bổ sung vào lọ nuôi cấy 1 ml dung dịch Colcemid nồng độ 1 ụg/1 ml.
Thu hoạch tế bào: dịch treo tế bào được chuyển từ lọ nuôi cấy sang ống ly tâm và được ly tâm từ 800 – 1000 vòng/1phút thời gian 10 phút. Dùng pipet Pas- teur loại bỏ dịch phía trên, giữ lại phần cặn tế bào rồi cho 10ml dung dịch KCl 0,075M và để trong tủ ấm 370C thời gian 45 phút. Ly tâm, loại bỏ dịch phía trên và giữ lại phần cặn tế bào rồi cho dung dịch Carnoy (3 Methanol: 1a. acetic), bước này được nhắc lại 3 lần. Lần thứ ba sau khi ly tâm, loại bỏ dịch phía trên, giữ lại phần cặn tế bào rồi dùng pipet Pasteur hút lấy phần cặn tế bào rồi dàn đều lên phiến kính sạch. Để tiêu bản khô tự nhiên và nhuộm tiêu bản bằng phương pháp nhuộm băng G theo phương pháp của Seabright. M (1971) [5]. Mỗi bệnh nhân chúng tôi đánh giá 50 cụm kỳ giữa dưới kính hiển vi quang học ở độ phóng đại 1000 lần. Sau đó chụp 3 cụm kỳ giữa điển hình, rồi in trên giấy ảnh, cắt rời từng chiếc NST và lập karyotyp theo tiêu chuẩn của ISCN – 1995 [4] .
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích