Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính trong chẩn đoán các tổn thương dạng u ở phổi

ĐẶT VẤN ĐỀ

Các tổn thương dạng u ở phổi là những đám hoặc nốt mờ được phát hiện trên phim Xquang phổi hay trên phim cắt lớp vi tính (CLVT) lồng ngực. Có hơn 80 loại các tổn thương dạng u ở phổi, bản chất các tổn thương này có the lành tính hoặc ung thư phế quản hoặc ung thư di căn từ nơi khác đến [1].

Ung thư phế quản là bệnh có tỉ lệ mắc và tử vong đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh có tỉ lệ mắc cao ở cả hai giới [2]. Phẫu thuật là lựa chọn điều trị đầu tay cho những trường hợp giai đoạn sớm, bên cạnh đó, nhiều tổn thương lành tính ở phổi (như u mô thừa, u mỡ…) đôi khi không cần can thiệp. Do đó việc phát hiện và chấn đoán sớm và chính xác rất quan trọng.

Có nhiều phương pháp đe chấn đoán bản chất các khối u ở phổi: các kỹ thuật chấn đoán hình ảnh như chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ, chụp PET/CT.. .và các kỹ thuật xâm nhập chấn đoán như nội soi phế quản (NSPQ), NSPQ siêu âm, nội soi lồng ngực, sinh thiết xuyên thành ngực (STXTN) dưới hướng dẫn của phim Xquang phổi, màn huỳnh quang, chụp CLVT, chụp CLVT huỳnh quang,… Trong đó chỉ các kỹ thuật xâm nhập mới có the lấy được bệnh phấm đe cung cấp tiêu chuấn vàng cho chấn đoán bản chất khối u. Để chấn đoán các tổn thương ở phổi, NSPQ và STXTN được sử dụng nhiều nhất. Nối soi phế quản giúp tiếp cận các khối u trung tâm, STXTN giúp tiếp cận các khối ngoại vi mà nội soi phế quản không tiếp cận được.

Kỹ thuật STXTN được thực hiện từ cuối thế kỷ XIX, lúc đầu người ta sử dụng kim lớn sinh thiết dưới hướng dẫn của phim phổi hoặc chiếu Xquang. Kỹ thuật này cho hiệu quả thấp tỉ lệ tai biến cao. Sau đó kỹ thuật STXTN được phát trien dần đến nay, người ta sử dụng kim sinh thiết cắt dưới hướng dẫn của chụp CLVT để lấy bệnh phẩm u phổi. Kỹ thuật cho phép lấy được bệnh phẩm mô bệnh mà tỉ lệ tai biến không quá cao [3].

Kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT giúp thầy thuốc lấy được bệnh phẩm các tổn thương ở sâu, kích thước nhỏ, vị trí nguy hiểm (như ở trung thất, sát tim và các mạch máu lớn) với độ an toàn, chính xác cao. Bên cạnh đó đo tỷ trọng trước sinh thiết, giúp thầy thuốc tránh được vùng hoại tử, hoặc vùng phổi xẹp, nên hiệu quả sinh thiết được cải thiện. Việc chụp kiểm tra ngay sau sinh thiết giúp phát hiện và xử trí ngay các tai biến nếu có.

Ớ nước ta kỹ thuật sinh thiết hút kim nhỏ được thực hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 [4], STXTN bằng kim Tru-cut dựa trên Xquang phổi thẳng nghiêng từ những năm 1990 [5]. Năm 2001 Tạ Bá Thắng có báo cáo về sinh thiết phổi hút xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT [6]. Trung tâm Hô hấp bệnh viện Bạch Mai đã tiến hành STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT bằng kim Tru-cut từ năm 2002. Đến nay kỹ thuật này đã được triển khai ở nhiều bệnh viện trên cả nước. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu sâu kiểm chứng kết quả sinh thiết. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu sau:

1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các ton thương dạng u ở phổi.

2. Nghiên cứu giá trị chẩn đoán của kỹ thuật STXTN cắt bằng kim Tru-cut dưới hướng dẫn của chụp CLVT

3. Phân loại giai đoạn TNM theo phân loại của UICC/AJCC năm 2009 và típ mô bệnh học theo tiêu chuẩn của WHO 2004 ở bệnh nhân ung thư phổi trước và sau mổ.

 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment