NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC BỆNH LÝ DẠ DÀY Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC BỆNH LÝ DẠ DÀY Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN
Nguyễn Văn Vỹ
Trung tâm y tế thị xã Hương Thuỷ
TÓM TẮT
Mục tiêu: 1) Khảo sát đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của bệnh lý dạ dày ở bệnh nhân xơ gan.
2) Tìm hiểu mối liên quan giữa nội soi và mô bệnh học với chỉ số Child- Pugh.
Đối tượng và phương pháp: Chọn 82 bệnh nhân trên 15 tuổi, được chẩn đoán xơ gan có tăng áp tĩnh mạch cửa Tại Bệnh viện Trung ương Huế. Chúng tôi chọn những bệnh nhân được chẩn đoán xơ gan khi có đủ 2 hội chứng: Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa và Hội chứng suy tế bào gan. Khi các triệu chứng lâm sàng không rõ cần bổ sung thêm các triệu chứng cận lâm sàng, khi mà các triệu chứng của hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa không đầy đủ thì loại trừ. Xử lý theo phương pháp thống kê y học thông thường.
Kết quả: Tuổi bị xơ gan trung bình 51,27±12,52; tuổi nhỏ nhất 17, tuổi lớn nhất 85; nam bị xơ gan nhiều hơn nữ (84% nam, 16% nữ), nghề nghiệp ổn định ít bị xơ gan hơn (19,5%) thất nghiệp (46,34%) không ổn định (34,15%); nguyên nhân do rượu chiếm (81,7%).Tổn thương dạng khảm nhẹ (74%), nặng (13,4%). Mức độ tổn thương mô học tại dạ dày không liên quan với mức độ nặng nhẹ của xơ gan.
Kết luận: Bệnh nhân bị xơ gan hầu hết đều có hội đủ 2 hội chứng: suy tế bào gan và tăng áp tĩnh mạch cửa; tổn thương dạng khảm là hình ảnh đặc thù của xơ gan; không có mối liên quan giữa thang điểm Child- Pugh với tổn thương mô học dạ dày.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích