Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân giãn phế quản bội nhiễm có trực khuẩn mủ xanh

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân giãn phế quản bội nhiễm có trực khuẩn mủ xanh

Giãn phế quản (GPQ) là một bệnh lý thường gặp ở các cơ sở Y tế do nhiều nguyên nhân gây ra. Trong quá trình diễn biến của bệnh, có những đợt cấp (sốt, khạc đờm đục, khó thở) do bội nhiễm các loại vi khuẩn khác nhau, trong đó bội nhiễm trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginosa) chiếm một tỷ lệ không cao, nhưng điều trị lại hết sức khó khăn do đặc tính kháng kháng sinh của loại vi khuẩn này. Để hiểu biết sâu sắc thêm về lâm sàng, cận lâm sàng của các đợt bội nhiễm do trực khuẩn mủ xanh ở các bệnh nhân giãn phế quản nhằm giúp thầy thuốc điều trị bệnh đạt hiệu quả cao hơn chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:

Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng cũng như cận lâm sàng của giãn phế quản có trực khuẩn mủ xanh.

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

Nhóm bệnh: bao gồm tất cả những  bệnh nhân được chẩn đoán xác định GPQ đợt cấp có bội nhiễm trực khuẩn mủ xanh điều trị  tại khoa Hô hấp bệnh viện Bạch Mai từ  tháng  1 – 2001 đến tháng 3 – 2005 không  phân biệt tuổi giới. Tiêu chuẩn đợt cấp của GPQ bội nhiễm có trực khuẩn mủ xanh:

+ Có phim chụp vi tính lồng ngực có hình ảnh GPQ hoặc đã được chẩn đoán xác định GPQ trước đó tại khoa Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai.

+ Cấy đờm hoặc dịch rửa phế quản có trực khuẩn mủ xanh.

+  Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  GPQ  bội nhiễm có trực khuẩn mủ xanh khi có đủ 2 tiêu chuẩn nêu trên.

Nhóm chứng: bao gồm tất cả những  bệnh nhân được chẩn đoán xác định GPQ bội nhiễm, cấy đờm hoặc dịch soi phế quản  không  có trực khuẩn mủ xanh được điều trị  tại  khoa Hô hấp bệnh viện Bạch Mai. Tiêu chuẩn GPQ bội nhiễm không có trực khuản mủ xanh như sau:

+ Lâm sàng có các triệu chứng nhiễm trùng hô hấp như sốt, khạc đờm đục.

+ Phim chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có hình ảnh GPQ hoặc đã được chẩn đoán GPQ trước đó tại khoa Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai.

+ Cấy đờm hoặc dịch rửa phế quản không có trực khuẩn mủ xanh.

Ngoài ra, bệnh nhân còn được làm các xét nghiệm khác như: công thức máu, máu lắng, soi phế quản.

Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân không có đủ các tiêu chuẩn trên.

2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu dựa trên các dữ kiện ghi chép trong hồ sơ bệnh án lưu trữ tại Phòng lưu trữ bệnh viện Bạch Mai. Tất cả các thông tin thu thập được ở mỗi trường hợp đều được ghi lại trong một bệnh án mẫu thống nhất.

Tất cả số liệu thu thập được đều xử lý bằng chương trình phân tích số liệu Epi 6.04.

Mục tiêu: nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của giãn phế quản (GPQ) có trực khuẩn mủ xanh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: hồi cứu 66 bệnh nhân GPQ bội nhiễm có trực khuẩn mủ xanh được điều trị tại khoa Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai được chia làm 2 nhóm: nhóm trực khuẩn mủ xanh dương tính và nhóm âm tính để so sánh (nhóm chứng). Kết quả và kết luận: về lâm sàng: 64,7% bệnh nhân là nữ, tuổi trung bình là 49, nông dân và công nhân là hai nghề có nhiều người mắc bệnh nhất. Đại đa số bệnh nhân đã vào viện nhiều lần (57,6% vào viện từ 2 lần trở lên). Thời gian nằm viện trung bình: 21,9 – 9,1 ngày. Các triệu chứng hay gặp: 64,7% sốt (gần 1/2 trường hợp chỉ sốt nhẹ). 93,9% bệnh nhân có khạc đờm mủ, trong đó 60,6% có lượng mủ từ 50 – 200 ml/ngày; 58,1% mủ màu xanh. 1/2 trường hợp có khó thở, 27,3% có móng tay khum và 100% khám phổi có ran ướt. Về cận lâm sàng: Hơn 1/2 trường hợp có bạch cầu tăng, đặc biệt bạch cầu đa nhân trung tính, 100% bệnh nhân có máu lắng tăng (49,75 + 20,68 mm trung bình sau 1 giờ và 70,22 + 28,47 mm sau 2 giờ). 58,6% soi phế quản có mủ trong lòng phế quản, 70% trường hợp có tổn thương cả 2 bên và 76,7% có tổn thương từ 3 thùy trở lên trên CT – can phổi. Dạng tổn thương chủ yếu là hình túi phối hợp với tràng hạt hoặc hình trụ (36,7% và 23,3%). 12,8% cấy đờm có phối hợp với các vi khuẩn khác. Kháng kháng sinh của P. aeruginosa ngày càng tăng. Tuy nhiên, kháng kháng sinh của P. aeruginosa với Ticarcillin, Piperacin/Tazobactam và với cephalosporin thế hệ 3 vẫn còn ở mức 0%, 9,1% và 27,3% tương ứng.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment