Nghiên cứu đăc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường mới được phát hiện
Nghiên cứu nhằm nhận xét một số đặc điểm đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng tỷ lệ xuất hiện các biến chứng ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) mới được phát hiện. Kết quả cho thấy tuổi trung bình 57,4 ± 9,4, chỉ số BMI 24,0 ± 2,0, chỉ số đường máu trung bình 9,0 ± 2,2 mmol/L, HbAiC là 8,9 ± 2,0%, đa số bệnh nhân có tăng triglyceride tại thời điểm phát hiện (3,1 ± 2,9 mmol/L). Các chỉ số đánh giá kháng insulinh như HOMA-IR là 6,0 ± 2,3 và HOMA-P là 49,8 ± 32,5. Bệnh mạch máu ngoại biên chiếm 5,6%, tỷ lệ tăng huyết áp là 29,1%. Có 5 trường hợp mắc biến chứng bàn chân chiếm 5,8% với biểu hiện chai chân. Kết luận: Tại thời điểm được chẩn đoán đa số bệnh nhân có thừa cân, béo phì, tăng đường máu và giảm tiết insulin kèm theo một số các biến chứng mạch máu do có liên quan đến tình trạng kháng insulin.
Từ khoá: đái tháo đường mới được phát hiện, biến chứng do đái tháo đường, kháng insulin.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ), ung thư, tim mạch là 3 bệnh mạn tính không lây nhiễm có tốc độ gia tăng nhanh và tỉ lệ tử vong hàng đầu. Theo công bố của WHO 1985 có 30 triệu người trên thế giới bị ĐTĐ, nhưng theo số liệu của viện nghiên cứu đái tháo đường Quốc tế vào năm 2000 có khoảng 157,3 triệu người và năm 2010 con số này lên tới 215,6 triệu [1], [2]. Ở Việt Nam, một số công trình điều tra dịch tễ học đã công bố tỉ lệ mắc bệnh ở 3 thành phố lớn: TP Hồ Chí Minh 2,52% (1992), Huế 0,96% (1993), Hà Nội 2,42% (2002) [2]. Tỉ lệ bệnh ĐTĐ tăng dần theo tuổi, tuổi càng lớn tỉ lệ mắc bệnh càng cao. Theo Trần Đức Thọ và cộng sự công bố năm 2002 nghiên cứu tại Hà Nội: người trên 15 tuổi tỉ lệ ĐTĐ là 4%, người trên 65 tuổi tỉ lệ ĐTĐ là 5,7% [2]. Cho đến nay tại Việt Nam vẫn còn rất ít các nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới được phát hiện. Do đó nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng tỷ lệ xuất hiện các biến chứng do ĐTĐ ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới được phát hiện.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng nghiên cứu
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: 1) Các bệnh nhân mới được chan đoán ĐTĐ típ 2 theo tiêu chuẩn của tổ chức y tế thế giới (WHO) [3] được tuyển chọn tại khoa khám bệnh, Bệnh viện Lão khoa trung ương và một số viện khu vực thuộc địa bàn Hà Nội;
1
2) tuối từ 50 đến 70, 3) chưa sử dụng các thuốc điều trị ĐTĐ; 4) xét nghiệm đường máu đói 2 lần từ 8 đến 12 mmol/L; 5) glycosylated hemoglobin (HbAiC) từ 8 đến 10%.
Tiêu chuan loại bệnh nhân: 1) tiền sử sử dụng các thuốc điều trị ĐTĐ, 2) có tăng kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase (GAD) và kháng nguyên đảo tụy 2 (Islet antigen 2 – IA-2).
Tất cả các bệnh nhân được thăm khám tống thể, hỏi về tiền sử bệnh, xét nghiệm đường máu, làm nghiệm pháp tăng đường huyết (NPTĐH), HbA1C, xét nghiệm chức năng gan thận, lipid, insulin và C-peptide.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân được ghi nhận những thông tin theo mẫu bệnh án thống nhất, đi sâu tìm hiểu những vấn đề sau: Các yếu tố liên quan tới bệnh: tuối, giới, trình độ học vấn, các bệnh lý phối hợp và biến chứng của ĐTĐ đã có tại thời điểm phát hiện bệnh như THA, xơ vữa động mạch, rối loạn lipid máu, tai biến mạch não, lao phối, bệnh thận, và tiền sử gia đình…
Xét nghiệm sinh hóa và các thông số nhân trắc học
Mẫu máu đói của các bệnh nhân được lấy vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu để đo đường máu, HbA1C, men gan (ALT, AST), creatinine, lipid máu, insulin và C- peptide. Đường máu được thực hiện bằng phép so màu enzyme, GOD-PAP máy đo glucose (Autolab Instrument, Boehringer Mannheim, Đức, có bước sóng 546 nmHg). HbA1C được đo bằng phương pháp BIO-RAD D-10TM (Bio-Rad, Strasbourg, Schiltigheim, Pháp). Nồng độ insulin được đo bằng phương pháp miễn dịch phóng xạ (RIA), sử dụng kháng thể của đơn vị nghiên cứu chúng tôi, mẫu chứng là insulin người, mẫu huyết thanh được ủ với than hoạt để tách các kháng thể bề mặt và insulin tự do [4]. C-peptide được đo bằng phương pháp sử dụng C-peptid người, (human C- peptide RIA kit – HCP-20K, Millipore, 6 Research Park Drive, St. Charles, Missouri 63304, Mỹ). NPTĐH được làm tại thời điểm sàng lọc để khang định chẩn đoán ĐTĐ. Các mẫu máu tĩnh mạch được lấy vào thời điểm 0, 30 và 120 phút sau khi uống 75g glucose. Mô hình hằng định nội môi (Homeostasis Model Assessment – HOMA) được sử dụng để đánh giá nhạy cảm insulin và chức năng tế bào bêta dựa vào chỉ số đường máu và insulin máu đói theo công thức sau: HOMA kháng insulin (HOMA-IR) = (insulin x glucose)/22.5, và HOMA chức năng tế bào bêta (HOMA-P) = 20 x insulin/(glucose -3.5) [5]. Cân nặng, chỉ số khối cơ thể (BMI), vòng bụng, vòng mông, huyết áp được ghi nhận trong hồ sơ nghiên cứu vào thời điểm thăm khám bệnh nhân
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích