NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHÂU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT
TÓM TẮT
Theo tổ chức y tế’ thế ‘giới ung thư gan nguyên phát (UTGNP) đứng hàng thứ 5 ở nam và hàng thứ 8 ở nữ. Tuy nhiên ở Việt Nam UTGNP đứng hàng đầu ở cả hai giới. Phẫu thuật cắt gan (PTCG) là một biện pháp điều trị hữu hiệu cho bệnh lý này. Ngày càng có nhiều phương tiện và kỹ thuật hỗ trợ trong chẩn đoán cũng như điều trị như: phẫu thuật nội soi, sử dụng dao CUSA, dao cắt đốt siêu âm (CĐSA), siêu âm lúc mổ (SÂLM), gây tê ngoài màng cứng (GTNMC), theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm (ALTMTT), huyết áp động mạch xâm lấn (HAĐMXL) làm tăng chất lượng chẩn đoán và điều trị.
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm lâm sàng và gây mê hoi sức trong phẫu thuật điều trị UTGNP.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu (NC) tiền cứu, mô tả, phân tích. Đối tượng là những bệnh nhân (BN) được PTCG để điều trị UTGNP tại BV Đại Học Y Dược, TP HCM từ tháng 01/2009 đến tháng 01/2010.
Kết quả: Nghiên cứu có 97 BN gom 76 nam và 21 nữ, tuổi trung bình 54,9 ± 11,4. Phân loại ASA I (5,2%), ASA II (72,2 %) và ASA III (22,6 %), Child A (99 %). Tỉ lệ nhiễm viêm gan siêu vi B (60,8%), C (20,6%). Vị trí u nằm chủ yếu ở gan phải (70,7 %), tỉ lệ 1 u là 89,9 %, kích thước u > 5cm (36,3 %). Tất cả BN được gây mê cân bằng với propofol, fentanyl, rocuronium và isoflurane (75,3%) hoặc sevoflurane (24,7%). GTNMC để giảm đau trong và sau mổ chiếm tỉ lệ 72,2 %. Nhiều nhất ở vị trí T9 – T10 (38,6 %). Thời gian lưu ca-tê-te trung bình là 3 ngày (1 – 5 ngày). Tại thời điểm rút ca-tê-te tỉ lệ INR của TQ là 1,56 (1,2 – 2,28). Không có tai biến máu tụ khoang ngoài màng cứng (KNMC). Chỉ sô’ INR của TQ tăng có ý nghĩa ngay lập tức sau khi mổ và đạt đỉnh vào ngày hậu phẫu (HP) 3. Sô’ lượng tiểu cầu giảm có ý nghĩa ngay sau mổ và đạt đỉnh vào ngày HP3 và trở về’ bình thường vào ngày HP5. Thời gian mổ trung bình (phút) đối với phẫu thuật nội soi (PTNS) và phẫu thuật mở (PTM) là 141 ± 49 (65 – 260) và 183 ± 47 (110 – 370). Thời gian nằm viện (ngày) là 6 ± 1 (4 – 10) và 8 ± 2 (6 – 14) theo thứ tự. Tỉ lệ hoi phục sau mổ là 99%. Một bệnh nhân tử vong vào ngày HP8 vì thuyên tắc tĩnh mạch cửa.
Kết luận: Hầu hết các trường hợp PTCG trong NC là carcinome tế’bào gan, trong đó 90% kết hợp với xơ gan. Tỉ lệ BN có nhiễm viêm gan siêu vi B hay C ở mức cao. Ngày nay có nhiều phương tiện hỗ trợ đểPTCG như dao CUSA, dao CĐSA, SALM. PTCG bằng PTNS có nhiều thuận lợi hơn so với nhóm PTM như rút ngắn thời gian phẫu thuật và nằm viện. Tỉ lệ hôi phục sau mổ là 99%. Một bệnh nhân tử vong vào ngày HP8 vì thuyên tắc tĩnh mạch cửa. Rối loạn đông máu thường gặp sau PTCG và kéo dài đến ngày HP5 mới hôi phục. Việc phôi hợp GTNMC và gây mê toàn thể trong PTCG thì an toàn.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất