Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị xuất huyết dịch kính trong bệnh võng mạc đái tháo đường
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị xuất huyết dịch kính trong bệnh võng mạc đái tháo đường
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, bệnh VMĐTĐ đang ngày một tăng lên do tuổi thọ của các bệnh nhân bị đái tháo đường được kéo dài. Nguy cơ đe dọa về thị lực do bệnh VMĐTĐ rất cao, ở Mỹ mỗi năm có khoảng 5000 trường hợp bị mù do bệnh võng mạc đái tháo đường [51]. Các biến chứng chính dẫn đến mù lòa là XHDK, bong võng mạc, glôcôm tân mạch, phù hoàng điểm và thiếu máu hoàng điểm. Xuất huyết dịch kính trong bệnh VMĐTĐ là một biến chứng thường gặp, chiếm 31 – 54% trong số các bệnh có thể gây xuất huyết dịch kính [62]. Theo tổ chức ETDRS, khi có XHDK là báo hiệu một tình trạng nặng nề trong sự tiến triển của bệnh ở giai đoạn nguy cơ cao và tăng sinh nặng. Sự tăng sinh và co kéo xảy ra tại dịch kính – võng mạc gây vỡ hàng rào máu võng mạc dẫn tới XHDK. Xuất huyết dịch kính trong bệnh VMĐTĐ là một trong những nguyên nhân khiến bệnh nhân phải tới bệnh viện do mất thị lực. Khi thăm khám, các bác sĩ nhãn khoa thấy có máu trong dịch kính ở nhiều mức độ và vị trí khác nhau. Nếu XHDK ít, có thể thấy máu rỉ ra từ những chỗ co kéo xơ mạch, tân mạch và kèm theo đó là các tổn thương của bệnh VMĐTĐ. Việc chẩn đoán XHDK không khó khi thăm khám lâm sàng. Tuy nhiên, việc sử dụng siêu âm để chẩn đoán là cần thiết, qua đó có thể đánh giá được mức độ XHDK và các tổn thương phối hợp khác nếu có như bong võng, co kéo dịch kính võng mạc, tổ chức hóa dịch kính…Từ đó định hướng phương pháp điều trị thích hợp. Xuất huyết dịch kính có thể tự tiêu sau 1 năm nhưng nếu XHDK dày đặc, kéo dài hơn 1 năm thì không có cơ hội tự tiêu. Việc điều trị XHDK trong bệnh VMĐTĐ là một thách thức lớn đối với các bác sĩ nhãn khoa vì nguyên nhân chảy máu phần lớn là do các màng xơ mạch co kéo tác động vào tân mạch. Quá trình tăng sinh tân mạch và co kéo diễn ra đồng thời, vì vậy việc điều trị được tiến hành nhằm mục đích lấy máu trong dịch kính, làm thoái triển, ngăn ngừa tân mạch phát triển và loại bỏ sự co kéo của các màng xơ mạch. Ngày nay trên thế giới và Việt Nam, ngoài chỉ định cắt dịch kính các nhà nhãn khoa còn phối hợp tiêm bevacizumab nội nhãn với liều 1,25mg/0,05ml để giảm thiểu biến chứng xuất huyết trong và sau phẫu thuật cắt dịch kính hoặc dùng độc lập bevacizumab tiêm nội nhãn để tiêu máu và tân mạch. Trong nghiên cứu của Raffaello và cộng sự năm 2010 trên 3 nhóm bệnh nhân bị bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh có chỉ định cắt dịch kính, một nhóm có tiêm bevacizumab và một nhóm không tiêm bevacizumab cho thấy: Nhóm không tiêm có tỉ lệ XHDK trong mổ là 19 trường hợp (79,1%), nhóm được tiêm trước phẫu thuật 1 tuần có 2 trường hợp XHDK trong mổ (8,3%) và nhóm được tiêm bevacizumab nội nhãn trước 21 ngày với liều tương đương thì tỉ lệ xuất huyết trong mổ là 3 trường hợp (12,5%)[54]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Nhất Châu và Đỗ Như Hơn trên 37 mắt bị XHDK có chỉ định cắt dịch kính và được tiêm bevacizumab nội nhãn trước mổ 1 tuần cho thấy 6 mắt (16,21%) có chảy máu trong mổ và 13 mắt (25,1%) chảy máu sau mổ [4]. Hiện nay, XHDK trong bệnh VMĐTĐ vẫn còn là một vấn đề phức tạp trong chẩn đoán, theo dõi diễn biến, tiên lượng và điều trị nên được các nhà nghiên cứu hết sức quan tâm. Nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về XHDK trong bệnh VMĐTĐ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu:
– Mô tả đặc điểm lâm sàng của xuất huyết dịch kính trong bệnh võng mạc đái tháo đường.
– Đánh giá kết quả điều trị xuất huyết dịch kính trong bệnh võng mạc đái tháo đường.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích