Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng viêm tai giữa mạn tổn thương xương con và đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình xương con

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng viêm tai giữa mạn tổn thương xương con và đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình xương con

Viêm tai giữa mạn là những viêm nhiễm kéo dài trong tai giữa, thỉnh thoảng lại có những đợt chảy mủ ra ngoài qua lỗ thủng màng nhĩ [124]. Xen kẽ giữa những đợt viêm là thời kỳ ổn định, hiện tượng viêm tuy kết thúc nhưng lại mở đầu cho một quá trình thoái hoá: tạo sẹo, tổ chức hạt … đây là di chứng của viêm tai giữa mạn nhưng lại là biểu hiện của trạng thái viêm đã ổn định [134]. Tổ chức y tế thế giới thống kê cho thấy tỷ lệ viêm tai giữa mạn như sau:

Theo tỷ lệ: Cao nhất >4%: Tanzania, India, Guam, Australian Aborigines. Cao 2 – 4%: Nigeria, Angola, Mozambique, Republic of Korea, Thailand, Philipines, Malaysia, Vietnam, China. Thấp 1-2%: Brasil, Kenya. Thấp nhất < 1%: Anh, Israel, Saudi Arabia, Denmark, Finland [124].

Theo khu vực: Tây Thái Bình Dương là 2,5 – 4,2% (Trung quốc, Việt nam, Malaysia. . .). Nam Thái Bình Dương là 3 – 7%. Nam và Trung Mỹ là 1,5%. Châu Âu là 0,4%. Trung Cận Đông: 1,5% [124]. Theo Trần Duy Ninh thì tỷ lệ viêm tai giữa mạn gặp ở vùng núi phía Bắc nước ta khoảng 2-5% [8].

Viêm tai giữa mạn (VTGM) có thể gặp ở mọi lứa tuổi. [67][96][124]. Viêm tai giữa mạn thường để lại di chứng phổ biến nhất là suy giảm sức nghe, làm giảm khả năng học tập và làm việc.

Trong viêm tai giữa mạn thủng màng nhĩ đơn thuần sức nghe giảm tối đa là 30 dB, ít ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp. Thủng màng nhĩ kết hợp với tổn thương xương con thường giảm sức nghe trên 30 dB, ảnh hưởng nhiều đến khả năng giao tiếp, làm cho người bệnh cảm thấy khiếm khuyết và thiếu tự tin trong cuộc sống. Tổ chức y tế thế giới đã xếp suy giảm sức nghe vào nhóm người bệnh khuyết tật. Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới thì chỉ số DALYs (disability- adjusted life-years) là số năm sống điều chỉnh theo mức mất khả năng, do nguyên nhân giảm sức nghe là 2,163 triệu người mỗi năm chiếm 94% ở các nước đang phát triển[124]. Đây thực sự là một gánh nặng đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Chẩn đoán xác định tổn thương gián đoạn xương con trong VTGM trước phẫu thuật còn rất khó khăn và hay bị bỏ sót. Thường chỉ được phát hiện trong lúc phẫu thuật. Phẫu thuật đối với VTGM trước đây chỉ nhằm mục đích là lấy sạch bệnh tích mà không chú ý đến vấn đề phục hồi chức năng nghe. Đầu thập kỷ 50 của thế kỷ 20 Wullstein và Zoller đã công bố những công trình nghiên cứu đặt nền móng cơ bản cho phẫu thuật chỉnh hình tai giữa [32].

Tạo hình hệ thống xương con có nhiều chất liệu khác nhau như gốm, xương tự thân, Titanium, Hydroxyapatite và Cement. . .[43][59][60][79][91]. Ở Việt Nam năm 1980 mới thực hiện phẫu thuật tạo hình hệ thống xương con bằng xương đồng chủng [1], những năm đầu của thế kỷ 21 mới ứng dụng kỹ thuật thay thế xương bàn đạp bằng gốm sinh học. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay thì sản xuất được gốm sinh học trong nước, tạo hình được các trụ dẫn để thay thế xương con có giá phù hợp với đa số người bệnh thực sự là một bước đột phá về công nghệ – kỹ thuật và triển khai ứng dụng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế trong điều trị, từ nhu cầu của người bệnh, từ chương trình phòng chống điếc và nghễnh ngãng của WHO. Do vậy phẫu thuật phục hồi chức năng nghe cho bệnh nhân là việc làm cấp thiết. Nhưng từ trước đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào ở nước ta có tính hệ thống, để đánh giá về hình thái tổn thương xương con trong VTGM và hiệu quả của phẫu thuật tạo hình xương con. Vì vậy đề tài này được nghiên cứu với mục tiêu: Mục tiêu nghiên cứu :

1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của viêm tai giữa mạn tổn thương xương con.

2. Đánh giá hiệu quả phẫu thuật tạo hình hệ thống xương con bằng xương con tự thân và trụ gốm sinh học.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment