Nghiên cứu đặc điểm viêm phúc mạc sản khoa điều trị tại BVPSTƯ từ 1/1998 -12/2007
Viêm phúc mạc sản khoa là một trong những hình thái nhiễm khuẩn toàn thân nặng nhất trong các hình thái nhiễm khuẩn sản khoa (NKSK). Viêm phúc mạc sản khoa (VPMSK) không những gây tổn hại về kinh tế cho bênh nhân, gia đình và xã hội mà còn làm mất sức lao động, ảnh hưởng chức năng sinh đẻ thâm chí còn có thể cướp đi sinh mạng của người phụ nữ [33],[34].
Nhiễm khuẩn sản khoa vẫn chiếm tỷ lê cao trong các tai biến sản khoa và là một trong những nguyên nhân gây tử vong mẹ, đặc biêt ở những nước đang phát triển trong đó có Viêt Nam. Theo Vorherr tỷ lê NK chiếm 3-4% trong số phụ nữ có thai và đẻ[50]. Theo Nguyễn Thìn và cộng sự tỷ lê NK sau đẻ năm 1985 là 1,06% và năm 1987 là 1,3%[27]
Theo Atrash nghiên cứu tại Mỹ (1990) tỷ lê tử vong mẹ do nhiễm khuẩn sản khoa chiếm khoảng 8% trong số 2644 tử vong mẹ từ năm 1979 đến năm 1986[37]. Theo Alan H. Decherney nghiên cứu tại ý (1990), tỷ lê tử vong mẹ do nhiễm khuẩn sau đẻ cũng chiếm khoảng 8% trong số các nguyên nhân gây tử vong mẹ[34].
Theo Hoàng chí Long (1997) tỷ lê tử vong do nhiễm khuẩn hâu sản chiếm 8,33% trong số 26 trường hợp tử vong mẹ ở tỉnh Thái Nguyên, đứng hàng thứ tư trong số các nguyên nhân gây tử vong mẹ[23].
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm BVBMTE & KHHGĐ Thái Bình (2002) tỷ lê tử vong mẹ do nhiễm khuẩn sản khoa (1991-2000) là 17,6% [24].
Ngày nay, VPM hiếm gặp ở những nước có nền kinh tế phát triển, điều kiên sống và chăm sóc y tế cao như ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhưng ở Viêt Nam hình thái nặng như viêm phúc mạc sản khoa là một trong số các hình thái nhiễm khuẩn sản khoa và là một trong những nguyên nhân gây tử vong mẹ.
Theo tác giả Nguyễn Viết Tiên tỷ lê VPMSK so với các nhiễm khuẩn sản khoa trong 10 näm 1976-1985 tại Viên BVBMTSS là 3,6% (68/1879), trong đó có 77,5% bênh nhân từ các tỉnh gửi về và có tới 18 bênh nhân tử vong chiêm tỷ lê 26,5% trong tổng số VPM [28].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Cần tỷ lê viêm phúc mạc sản khoa tại Viên BVBMTSS trong 5 näm (1992 – 1998) ngày càng giảm và chỉ bằng mọt nửa so với 5 näm (1988 -1992) [11].
Theo tác giả Nguyễn Tuấn Anh tỷ lê VPM là 5,58% trong tổng số ca NK hâu sản điều trị tại BVPSTƯ từ 6/1997-/6/2000[1].
Cùng với thời gian, sự tiên bọ về hổi sức, phẫu thuât và điều trị cùng với sự ra đời của hàng loạt thể hê kháng sinh mới đã làm thay đổi mọt phần bọ mät lâm sàng của VPMSK.
Do đâc điểm của BVPSTƯ là viên đầu ngành của cả nước, phải tiêp nhân nhiều trường hợp nhiễm khuẩn sản khoa gửi về, đâc biêt là các truờng hợp VPM, có rất nhiều yêu tố và nguyên nhân cần bàn đên. Để chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời sẽ hạn chê được những biên chứng näng nề, giảm tỷ lê tử vong và góp phần giảm tỷ lê VPMSK tiên tới giải quyêt triêt để cän bênh này chúng tôi tiên hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm viêm phúc mạc sản khoa điều trị tại BVPSTƯ từ 1/1998 -12/2007” nhằm hai mục tiêu:
1. Nhạn xét một số đặc điểm lâm sàng, cạn lâm sàng và nguyên nhân của VPMSK điều tri tại BVPSTƯ trong 10 năm từ 1/1998 – 12/2007.
2. Nhạn xét kết quả điều tri VPMSK điều tri tại BVPSTƯ trong thời gian từ 1/1998 – 12/2007.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích