NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH NGỰC TRONG HAI BÊN VÀ ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU MẠCH VÀNH
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH NGỰC TRONG HAI BÊN VÀ ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU MẠCH VÀNH
Đoàn Văn Phụng*, Tohru Asai**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát đặc tính mô học và bệnh học của động mạch ngực trong hai bên, động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và phân tích các yếu tố nguy cơ, các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học của hai loại động mạch này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 đoạn động mạch ngực trong hai bên và 33 đoạn động mạch vị mạc nối phải thu thập từ các bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch vành được khảo sát đặc tính mô học và bệnh học bằng kính hiển vi quang học. Chúng tôi cũng ghi nhận các yếu tố nguy cơ của ở các bệnh nhân để tìm mối liên quan giữa chúng và đặc tính bệnh học của động mạch ghép.
Kết quả: Đặc tính mô học của động mạch ghi nhận ở động mạch ngực trong hai bên có 16,7% loại đàn hồi, 58,9% loại cơ. Phần lớn các đoạn động mạch vị mạc nối phải là loại cơ (87,9%). Sốlượng trung bình các khoảng hở ở lớp màng đáy của động mạch vị mạc nối phải (41) cao hơn ở động mạch ngực trong hai bên (30) (p<0,02). Đường kính trung bình của động mạch vị mạc nối phải 2,06 ± 0,62 mm lớn hơn động mạch ngực trong 1,81 ± 0,47 mm (p<0,016). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ dày của lớp nội mạc giữa hai loại động mạch. Động mạch ngực trong mỏng hơn động mạch vị mạc nối phải (p<0,024), nhưng độ dày của lớp trung mạc thì như nhau (p>0,05). Khảo sát đặc tính bệnh học cho thấy ở động mạch ngực trong hai bên tỉ lệ tăng sinh nội mạc là 47,8%, tốn thương xơ vữa là 1,1% không có trường hợp vôi hóa động mạch. Động mạch vị mạc nối phải có tỉ lệ tăng sinh nội mạc là 67,9%, tỉ lệ xơ vữa là 8,2% và 4,01% vôi hóa động mạch. Đánh giá mức độ tăng sinh nội mạc trên từng loại động mạch cho thấy động mạch ngực trong hai bên có độ 0, I, II, III tương ứng là 62,2%; 17,7%; 7,7%; 12,4%. Ở động mạch vị mạc nối phải các giá trị này là 31,2%; 44,2%; 18,1% và 16,5%. So sánh độ hẹp lòng mạch máu cũng ghi nhận ở động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong (p<0,01). Phân tích các yếu tố nguy cơ và các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học mạch máu chỉ tìm thấy tình trạng tăng huyết áp trên các bệnh nhân sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối có liên quan đến bệnh học của động mạch này.
Kết luận: Nghiên cứu tìm thấy một tỉ lệ cao động mạch ngực trong hai bên là loại cơ trong khi nhiều nghiên cứu trước đây ghi nhận chúng hoàn toàn là loại đàn hồi. Số lượng các khoảng hở ở lớp màng đáy mạch máu ở động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong. Kích thước của động mạch vị mạc nối phải lớn hơn động mạch ngực trong thuận lợi cho thực hiện miệng nối. Mức độ tăng sinh nội mạc của hai loại động mạch trung bình, tốn thương xơ vữa và vôi hóa ít. Có thể sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối mạch vành thương tự như động mạch ngực trong về gốc độ mô và bệnh học. Ngoài ra, cần lưu ý kiểm soát huyết áp trên các bệnh nhân có sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối mạch vành vì nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng tăng huyết áp và tăng sinh nội mạc trên động mạch này.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất