NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHỐNG TÁI PHÁT CỦA TRÀN KHÍ MÀNG PHỐI TỰ PHÁT NGUYÊN PHÁT BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
Tràn khí màng phổi là sự tích tụ khí trong khoang màng phổi dẫn đến xẹp phổi. Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát (TKMPTPNP) là tình trạng tràn khí xảy ra ở bệnh nhân trẻ, khỏe mạnh không có bệnh lý phổi. Trái lại tràn khí màng phổi tự phát thứ phát xảy ra trên bệnh nhân có bệnh lý phổi trước đó. Tần suất TKMPTPNP 4-9/100.000 dân số(3,4,15,19 20), tỉ lệ nam với nữ từ 4-6/1(3, 15). Theo dõi cho thấy 20¬50% TKMP tái phát sau lần đầu tiên, lần thứ 2 tỷ lệ tái phát 60-80%.
Trước đây điều trị bằng đặt dẫn lưu, tỉ lệ thành công khoảng 70-80%(9), số còn lại phải phẫu thuật thường là những trường hợp dò khí kéo dài hoặc phổi không nở trọn sau đặt ống dẫn lưu. Trước đây những trường hợp này phải mở ngực và giải quyết chỗ dò khí: khâu hoặc cắt bóng khí. Đây là phẫu thuật lớn, xâm lấn nhiều và có một số tai biến nhất định.
Ngày nay với sự phát triển của kỹ thuật nội soi lồng ngực và những dụng cụ chuyên dùng, nội soi lồng ngực là một phương pháp điều trị ít xâm lấn trong các bệnh lý lồng ngực. TKMPTPNP là một trong những bệnh lý ứng dụng của nội soi lồng ngực.
Đặt dẫn lưu ngực là một xử trí tạm thời trong TKMPTPNP, sau đặt phải chờ đợi vài ngày phổi nở và rút dẫn lưu ít nhất 2 ngày sau khi hết dò khí(3). Vì vậy thời gian nằm viện kéo dài, kèm theo tỉ lệ tái phát cao nếu chi đặt dẫn lưu đơn thuần nên chọn lựa một phương pháp điều trị hiệu quả nhanh và ít tái phát là mục tiêu của nhiều nghiên cứu.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm chứng minh nội soi lồng ngực điều trị tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát lần đầu tiên là một lựa chọn tối ưu cho bệnh nhân.
Mục tiêu nghiên cứu
*Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi
*Phân tích các biến chứng và tai biến trong phẫu thuật.
* Tỉ lệ tái phát sau mổ.
Theo Swierenga và cộng sự (1974), Swierenga (1977) và Vanderschueren (1981) ít nhất có 4 dạng đại thể được nhìn thấy qua nội
sop, 22).
Nhóm I: phổi bình thường không có bóng khí 30-40%.
Nhóm II: không có bóng khí nhưng có dây dính giữa phổi và màng phổi 12-15%.
Nhóm III: bóng khí nhỏ hơn 2cm chiếm 28¬41%.
Nhóm IV: nhiều bóng khí lớn hơn 2cm.
Các biến chứng của tràn khí màng phổi
Dò khí kéo dài khi hơn 48 giờ đặt dẫn lưu thường phải can thiệp phẫu thuật.
TKMP áp lực: suy hô hấp, tuần hoàn, giảm áp ngay bằng chọc kim hay dẫn lưu.
Tràn khí trung thất: chấn thương khí đạo và vỡ thực quản.
Tràn khí màng bụng sau TKMP thường ít xảy ra: phải loại trừ thủng tạng rỗng.
Tràn khí tràn máu màng phổi xảy ra từ 10¬12% trường hợp tràn khí, ở nam nhiều hơn nữ 10 lần. Chảy máu do rách dây chằng mạch máu giữa màng phổi thành và tạng đôi khi do vỡ mạch máu của bóng khí
TKMP hai bên xảy ra 10 – 15% trường hợp, tình trạng bệnh lý này xảy ra đồng thời, nhưng thường bên trước bên sau và ít xảy ra ở bệnh nhân khí phế thũng.
Tái phát là biến chứng thường xảy ra nhất của TKMP, tỉ lệ khoảng 25% đến 50% và xảy ra trong vòng 2 năm từ lúc bị tràn khí lần đầu nếu chỉ đặt dẫn lưu đơn thuần(3, 22). Sau TKMP lần hai tỉ lệ tái phát trên 50%. Hút thuốc lá là nguyên nhân gây tràn khí màng phổi tái phát
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất