NGHIÊN CứU DịCH Tễ Về SA SúT TRí TUệ ở NGƯờI CAO TUổI TạI CộNG ĐồNG
NGHIÊN CứU DịCH Tễ Về SA SúT TRí TUệ ở NGƯờI CAO TUổI TạI CộNG ĐồNG
Phạm Thắng, Lương Chí Thành và cs
Bệnh viện Lão khoa Trung ương
TÓM TẮT
Mục tiêu: (1) xác định tỷ lệ hiện sa sút trí tuệ ở người cao tuổi (NCT) sống tại cộng đồng; (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ (YTNC) và tình trạng mắc SSTT.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là 5892 NCT tại 8 xã thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây (cũ)
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Công cụ đánh giá được thiết kế và in sẵn thành bộ hồ sơ bao gồm: biểu mẫu A gồm phần hành chính và trắc nghiệm sàng lọc MMSE. Biểu mẫu B, C và D bao gồm các trắc nghiệm thần kinh-tâm lý chuyên sâu. Điều tra được tiến hành theo hai bước: (1) Bước 1 (sàng lọc): sử dụng biểu mẫu A để sàng lọc những người nghi ngờ có SSTT và các YTNC. (2) Bước 2: sử dụng biểu mẫu B,C,D phối hợp với khám lâm sàng và thần kinh tâm thần để chẩn đoán SSTT. Những người không biết đọc và viết được loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả: Trong số 5238 đối tượng đạt tiêu chuẩn phân tích số liệu, có 238 đối tượng có SSTT, chiếm tỷ lệ 4,5%. Tỷ lệ này tương ứng ở nhóm nam giới và nữ giới là 4,3% và 4,7%. Tỷ lệ hiện mắc SSTT tăng đều đặn theo tuổi từ 0,8% (60-64) lên 9,2% (85+). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa SSTT với trình độ văn hoá thấp OR = 2,1, 95% CI = 1,2-3,6; tiền sử bị đột quỵ OR = 7,9, 95% CI = 4,5-13,8; parkinson OR = 3,2, 95% CI = 1,7-6,0; và tiền sử gia đình có SSTT OR = 12,2, 95% CI = 7,9-18,8. Không có mối liên quan giữa SSTT với THA, ĐTĐ, và chấn thương sọ não.
Kết luận: (1) Tỷ lệ SSTT ở NCT tại Ba Vì, Hà Tây là 4,5%, tỷ lệ này tăng rõ rệt theo tuổi nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo giới;(2) Các YTNC của SSTT là tuổi cao, tiền sử gia đình có người mắc SSTT, học vấn thấp và sự có mặt của các bệnh lý như đột quị, Parkinson
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất