NGHIÊN CứU ĐIềU TRị BảO TồN CHửA NGOàI Tử CUNG CHƯA Vỡ BằNG PHẫU THUậT NộI SOI
NGHIÊN CứU ĐIềU TRị BảO TồN CHửA NGOàI Tử CUNG CHƯA Vỡ BằNG PHẫU THUậT NộI SOI
Vũ Văn Du –Bệnh viện phụ sản trung ương
Vương Tiến Hoà – Trường đại học Y Hà Nội
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ sót rau (còn gọi là chửa ngoài tử cung tồn tại), phương pháp điều trị sót rau sau mổ và các tai biến biến chứng sau mổ nội soi bảo tồn chửa ngoài tử cung chưa vỡ tại Bệnh viện PSTW.
Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không có nhóm chứng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:120 trường hợp chửa ngoài tử cung chưa vỡ được mổ nội soi bảo tồn tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian từ 2007 đến tháng 2009.Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Huyết động ổn định, nồng độ βhCG < 20.000mUI/ml,
kích thước khối chửa < 6cm, bệnh nhân có nguyện vọng sinh đẻ và tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.Bảo tồn vòi tử cung bằng cách rạch dọc bờ tự do mà không dùng vasopressin. Tổ chức rau thai được lấy bằng ống hút. Nồng độ βhCG được làm ngay trước mổ và không quá 24 giờ trước mổ. Nồng độ βhCG được định lượng sau mổ cho tới khi < 5 mIU/mL.
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ chửa ngoài tử cung tồn tại sau mổ nội soi bảo tồn vòi tử cung ở những trường hợp chửa ngoài tử cung là 9,2%. Tất cả các trường hợp chửa ngoài tử cung tồn tại đều được điều trị thành công bằng MTX, không có tai biến hay tác dụng phụ nào có liên quan đến điều trị bằng MTX
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Học (2004) “ Nghiên cứu sử dụng Methotrexate trong điều trị chửa ngoài tử cung chưa vỡ tại bệnh viện phụ sản Hải Phòng”, Luận án tiến sĩ y học, Học viện quân y, Hà Nội.
3. Hoàng Xuân Sơn (2004) “Tìm hiểu về chửa ngoài tử cung phát hiện và xử trí muộn được điều trị tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2004”, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học y Hà Nội.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất