Nghiên cứu độ xâm lấn cùa ung thư trực tràng qua lâm sàng, nội soi và siêu âm nội trực tràng
Ung thư trực tràng đà được nghiên cứu lừ xa xưa. Có những tài liệu thời cổ đại trên thế giới dé cập vé căn bệnh này với những khuyến cáo chữa trị nội khoa. Năm 1836, Lisfranc lần đầu tiên thực hiện phảu thuật cỉiéu trị ung thư irực iràng. Nhưng phải đến thế ký 20, ung thư trực tràng mới dược nghiên cứu tích cực, sâu sắc hơn ớ mọi phương diện, với những công trình nổi tiếng của Edouard Qucnu – w. E. Miles, w.w. Babcock, Culhbcrỉ Dukes., A. G. Park, M. Malafossc. …
Ngày nay, tý lệ mắc ung thư đại trực (ràng (trong đó hơn 50% là ung thư trực tràng) irên toàn thố giới tăng lẻn không ngừng [9] [25] 133] [60] [75] [971. ở những nước công nghiệp phát triến, ung tlnr đại trực tràng đứng hàng thứ 2 trong số các bệnh ung thư ở cả 2 giới, chỉ sau ung thư phổi ớ nam giới và sau ung thư vú ở nữ giới [601 [75] [129]. Tại Pháp, hàng năm gặp khoảng 26.000 ca ung lliư đại trực tràng mới, chiếm vị irí thứ nhất các bệnh ung thư [129]. Tại Anh, hàng năm gặp khoảng 19.000 ca chết vì ung thư đại trực tràng, dứng thứ 2 tử vong do ung thư. Tại Mỹ, ung thư đại trực tràng dứng ví trí thứ 3 trong số các bệnh ung thư [58] [60] [75]. Tại Việt Nam, ung thư (lại trực tràng nằm trong số các bệnh ung thư hay gặp [2) [5] 17] [19], đứng vị trí thứ 5 trong các bệnh ung thư [25]. Bệnh ung thư trực tràng dang trớ thành mội vấn dẻ cùa y tố cộng đổng, ngày càng được quan tâm. Sự hiểu biết nhiều hưĩì về bệnh ung thư trực tràng của người dân, cùng với những tiến bộ của các kỹ thuật sàng lọc chần đoán, đã làm tảng tý lộ chẩn đoán sớm, do đó ticn lượng của bệnh (tà sáng sủa hơn [42] [571 [64] [131].
Trong lĩnh vực diều trị ung thư trực tràng, hiện nay clang có những thay đổi và liến bộ lớn: trước hết là xu hướng táng cường điều trị bào tồn cư Iròn hậu môn, nhằm cài thiện chất lượng sống cho người bệnh mà không ảnh hướng đến Ihời gian sống thêm [103] [139] [ 1421. Việc điều trị phối hợp giữa phẫu thuật – xạ trị và hoá trị liộu đã làm tăng kết quá điều trị, giảm tỷ lệ tái phát [54] [ 140]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số vấn dồ tổn tại, có nhiều trường hợp tái phái tại chồ sau điều trị mà một trong những nguyên nhân là đánh giá chưa đúng mức xâm lấn của tổ chức ung thư.
Chi định hóa – xạ trị trước phẫu Ihuật cũng như phẫu thuật báo lổn. phẫu thuật cắt u qua (lường hậu môn, phụ thuộc vào mức xàm lấn của ung thư và tình trạng tổn thương hạch vùng, nhưng việc đánh giá mức xâm lấn của ung thư, cũng như xác định tốn thương hạch vừng trước điều trị còn gặp nhiều khó khản, nhấl là ở nước la, vẫn chỉ dựa vào thăm khám ỉâm sàng. Hiện nay, người ta đang nghiên cứu, ứng duns các kỹ thuật mới như siêu âm nội trực tràng (endorectal ultrasonography), chụp CT Scan, chụp cộng hướng từ để (lánh giá mức độ xâm lấn của bệnh chínlì xác hơn. Nghiên cứu vẻ vấn đề này ở Việt Nam chưa có. Chính vi vậy chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu độ xâm lấn cùa ung thư trực tràng qua lâm sàng, nội soi và siêu âm nội trực tràng ” nhàm 2 mục tiêu:
1. Tìm hiểu giá trị của lãm sàng, nội soi trong đánh giá mức xám lấn của ung thư trực tràng, đối chiếu với tổn thương phẫu thuật và mô bệnh học.
2. Nghiên cứu giá trị cùa siêu ám nội trực tràng trong chán đoán mức xám lấn ung thư trực tràng và di căn hạch tiểu khung.
Đế đạt được những mục licu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh nhân ung thư trực tràng điều trị tại khoa Ngoại bệnh viện K từ 1993-1997, tìm hiếu giá trị của thăm khám lâm sàng và nội soi trong đánh giá mức xâm lấn của ung thư trực tràng.
Từ năm 1998, chúng tôi bát đầu thực hiện kỹ thuật siêu âm nội trực tràng cho 127 bệnh nhân, đối chiếu với tổn thương phẫu thuật và mô bệnh học.
Mộl số kỹ thuật mới như chụp CT Scan, xét nghiệm định lượng CEA trong huyct thanh dược tiến hành irong nhóm nghiên cứu, góp phẩn đánh giá mức xâm lấn ung thư trực tràng, lừ đó tìm ra biện pháp phối hợp các phương pháp chân đoán mức dộ xâm lấn và lan tràn cùa bệnh có hiệu quả nhất trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay ớ Việt Nam.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích