Nghiên cứu giá trị chụp niệu đổ tĩnh mạch trong chẩn đoán tắc cấp đường dẫn niệu trên do sỏi
Bênh sỏi thân được biết từ thời cổ xưa; cơn đau quặn thân đã được mô tả trong y văn thế” kỷ XIX [109]. Hình ảnh X quang sỏi thân, niêu quản xuất hiên đầu tiên năm 1896, vài tháng sau khám phá tia X [33]. Tỉ lê sỏi tiết niêu hiên nay khoảng 12% dân số ở những nước công nghiệp [80], [106], [138], với khoảng 3% có biểu hiên cơn đau quặn thân [113]. Ở nước ta sỏi hê tiết niêu chiếm tỉ lê cao [5]. Biến chứng chủ yếu của sỏi tiết niêu là nhiễm khuẩn và suy thân [71]. Chi phí y tế cho bênh sỏi tiết niêu cao [80].
Đau thắt lưng bụng là biểu hiên chủ yếu của sỏi thân, niêu quản; các triêu chứng thường gặp khác là đái máu, buồn nôn, nôn [18], [80]. Đau có thể biểu hiên đột ngột, cấp tính ở vùng thắt lưng bụng một bên, đó là cơn đau quặn thân [138]. Bênh thường khởi phát tự nhiên, do sỏi di chuyển làm tắc niêu quản, gây tăng áp lực đường dẫn niêu [63], [130]. Tắc cấp đường dẫn niêu trên, mà biểu hiên lâm sàng cơn đau quặn thân, có các dấu hiêu hình ảnh phản ánh hiên tượng tắc cấp tính, trong khoảng từ bể thân đến lỗ niêu quản đổ vào bàng quang. Có 2-5% dân chúng bị cơn đau quặn thân ít nhất một lần trong đời [81], [142]. Bênh thường gặp ở độ tuổi 30-50 [33], 50% bị tái phát trong vòng 5 năm [33], [142]; 90% nguyên nhân do sỏi niêu quản [140].
Lâm sàng cơn đau quặn thân có thể không điển hình, chẩn đoán nhầm với bênh khác như viêm thân bể thân cấp, nhồi máu thân, viêm ruột thừa, viêm túi thừa đại tràng…[19], [61], [81], [106], [120], [130], với tỉ lê 5-50% [42], [63], [140], [142]. Chẩn đoán hình ảnh có khả năng khẳng định hoặc loại trừ một giả thuyết chẩn đoán cơn đau quặn thân của lâm sàng [130]; chẩn đoán nguyên nhân tắc, vị trí tắc, kích thước vât tắc và đánh giá mức độ tắc; đó là những cơ sở để chọn quyết định điều trị hợp lý [63], [121]. Chẩn đoán sớm cơn đau quặn thân và trong một số trường hợp nặng cần chẩn đoán cấp cứu, chính xác; để giải phóng tắc sớm, tránh các biến chứng và phục hồi tốt chức năng thân [129]. Điều trị tích cực còn tránh được đau tái phát hoặc tắc mạn, suy thân, với những hâu quả về sức khoẻ và kinh tế nặng nề [6], [9], [15]. Lựa chọn kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh nào, đáp ứng được yêu cầu trên, trong điều kiên hiên nay, là một vấn đề cấp thiết.
Lựa chọn kỹ thuật hình ảnh trong chẩn đoán tắc cấp đường dẫn niêu trên [35], [60], [82] là vấn đề còn tranh cãi và khác nhau tuỳ từng cơ sở y tế, thành phố, quốc gia; có liên quan tỉ lê mắc bênh tại địa phương, hê thống y tế, chi phí xét nghiêm, lợi ích và hạn chế của mỗi kỹ thuật [98]. Xu hướng hiên nay của nhiều tác giả cho cắt lớp vi tính là kỹ thuật tốt nhất [42], [55], [72], [98], [101], [117]. Ở nước ta siêu âm và hê tiết niêu không chuẩn bị là những phương tiên chẩn đoán cơn đau quặn thận phổ biến. Siêu âm kết hợp hê tiết niêu không chuẩn bị chẩn đoán được tắc cấp trong đa số trường hợp, nhưng nhiều trường hợp không đủ thông tin cho những quyết định điều trị cấp cứu, hợp lý [29], [43], [63], [73], [121], [138]. Những dấu hiêu của niêu đổ tĩnh mạch trong chẩn đoán tắc cấp chưa được trình bày đầy đủ [40]. Hiên nay ở nước ta chưa có thể chỉ định rộng rãi cắt lớp vi tính. Vậy Chụp niệu đồ tĩnh mạch cấp cứu trong hoặc sau cơn đau trong vòng 24 giờ có giá trị cao trong chẩn đoán cơn đau quặn thận không? Phối hợp niêu đổ tĩnh mạch với siêu âm, hiêu quả chẩn đoán sỏi có thể tương đương cắt lớp vi tính không? Chúng tôi chưa thấy tác giả nào trong nước nghiên cứu vấn đề này, do vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu giá trị chụp niêu đổ tĩnh mạch trong chẩn đoán tắc cấp đường dẫn niêu trên do sỏi” với hai mục tiêu:
1) Nghiên cứu giá trị niệu đồ tĩnh mạch trong chẩn đoán tắc cấp đường dẫn niệu trên.
2) Nghiên cứu giá trị niệu đồ tĩnh mạch phối hợp với siêu âm bụng, trong chẩn đoán tắc cấp đường dẫn niệu trên.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích