Giảm đau đóng góp vai trò quan trọng trong sự thỡnh công của phẫu thuật tim mở. Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá ảnh h-ởng của opioids tiêm tuỷ sống trên huyết động, thời gian thở máy, rút NKQ vỡ thời gian giảm đau trong phẫu thuật tim mở. Đối t-ợng vỡ Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, ngẫu nhiên, mù đơn có đối chứng. Chúng tôi nghiên cứu 30 bệnh nhân có tiêm morphine 7mcg/kg + fen- tanyl 1,5 mcg/kg trước khởi mê vỡ 30 bệnh nhân nhóm chứng. Đánh giá huyết động (nhịp tim, huyết áp, PVC) ở các thời điểm khởi mê, rạch da, cưa xương ức, ghi lại liều morphine vỡ fentanyl cần dùng trong vỡ sau phẫu thuật. Đánh giá điểm đau trong 48giờ, ghi lại thời gian thở máy, rút NKQ, nằm điều trị hồi sức của cả hai nhóm. Kết quả: Nhóm GTTS có xu hướng ổn định huyết động có ý nghĩa, tiêu thụ morphine, fentanyl, hypnovel trong vỡ sau mổ của nhóm GTTS thấp hơn có ý nghĩa (p<0.001), thời gian rút NKQ, thở máy vỡ nằm hồi sức thấp hơn có ý nghĩa (p<0.001), thời gian giảm đau kéo dỡi 47,2 giờ. Kết luận: Tiêm morphine tuỷ sống liều thấp (0,355mg) đã lỡm ổn định huyết động trong mổ, giảm đau kéo dỡi, rút ngắn thời gian thở máy vỡ nằm hồi sức trong mổ tim mở.
Đau sau mổ gây những tác hại lớn trên hệ tim mạch: gây tăng tần số tim, tăng huyết áp động mạch, tăng sức cản ngoại biên, tăng công O2 của tim, tăng tiêu thụ O2 cơ tim do làm tăng tiết các catecholamines [4]. Đối với bệnh nhân tim mạch do có rối loạn chức năng tim lại cộng thêm các kích thích gây đau nhiều trong phẫu thuật tim nguy cơ biến chứng tim mạch lại cμng nặng hơn. Phẫu thuật tim mở lμ một phẫu thuật lớn với đường mổ dai trên xương ức gây đau nhiều sau mổ, lμm thay đổi cấu trúc vμ hoạt động chức năng bình thường của cơ quan hô hấp. Bệnh nhân đau không dám thở sâu, không dám ho dẫn đến ứ đọng đờm dãi, gây xẹp phổi, viêm phổi… cμng ảnh hưởng đến hoạt động của tim [3]. Giảm đau sau mổ tim không chỉ đóng vai trò quan trọng trong quá trình hồi phục, sự thành công của phẫu thuật mà còn là sự chăm sóc tinh thần không thể thiếu sau mổ. Tiêm morphine vào tủy sống là đưa thuốc vào khoang dưới nhện, thuốc sẽ được hòa lẫn vμo dịch não tuỷ, ngấm trực tiếp vào các tổ chức thần kinh, cắt đứt tạm thời dẫn truyền cảm giác. Đây là một phương pháp đơn giản dễ thực hiện, hiệu quả giảm đau cao, thời gian giảm đau sau mổ kéo dài. Phương pháp nμy đã được sử dụng rộng rãi cho bệnh nhân phẫu thuật bụng, tiểu khung và chi dưới. Trên thế giới phương pháp này đã được áp dụng trong phẫu thuật tim và đạt được hiệu quả giảm đau tốt và kéo dài [3]. ở Việt Nam phương pháp này vẫn chưa được áp dụng trong mổ tim mở, trong khi với điều kiện kinh tế hạn chế, các phương tiện giảm
đau chưa đầy đủ, dường như đây là phương pháp rất phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hμnh nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: