Nghiên cứu hệ thống giám sát tai nạn thương tích ngành y tế tỉnh Yên Bái giai đoạn 2002-2010
Lương Mai Anh, Nguyễn Thúy Lan,Trịnh Xuân Đàn- Nghiên cứu hệ thống giám sát tai nạn thương tích ngành y tế tỉnh Yên Bái giai đoạn 2002-2010
Tạp chí khoa học công nghệ y dược số 89-2012
Tính đến năm 2010, Việt Nam có một hệ thống rộng lớn gồm 1049 bệnh viện và các cơ sở y tế tương đương. Trong tổng số 1049 bệnh viện trên địa bàn cả nước có: 27 bệnh viện trong đó có 10 bệnh viện đa khoa, 17 bệnh viện chuyên khoa do BộY Tếtrực tiếp quản lý; 959 bệnh viện, trong đó có 122 bệnh viện đa khoa tỉnh, 262 bệnh viện chuyên
khoa, 575 bệnh viên huyện/thị xã do địa phương quản lý (tỉnh, thành phố, huyện); 63 bệnh viện do các bộngành khác quản lý [1].
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thì khu vực thành phố là khu vực tập trung nhiều bệnh viện nhất. Các bệnh viện tại đây quy mô ngày càng được mở rộng phát triển về chiều sâu nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân không những trong tỉnh mà còn từcác tỉnh lân cận. Chính vì lượng bệnh nhân ngày càng lớn mà cơsởvật chất còn nhiều hạn chế nên nước thải từcác bệnh viện này thải ra môi trường xung quanh chưa đảm bảo chất lượng đổthải. Nước thải không đảm bảo tiêu chuẩn thải cứ nhưvậy phát tán xa môi trường xung quanh mang theo nhiều nguy cơtrong đó có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường vềkim loại nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộy tế,quyết định số1047/QĐ– BYT ngày 28/3/2002 về việc quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh Việt Nam đến 2010.
[2]. Trần Minh Hương (2007), “Báo cáo seminar Tổng quát về nguyên tố vi lượng”, Khoa công nghệhoá học trường ĐH Bách Khoa TPHCM.
[3]. Nông Thanh Sơn, Lương Thị Hồng Vân,(2003): Phương pháp nghiên cứu khoa học ứng dụng trong y – sinh học, Nxb Y học, Hà Nội
[4]. TC 86: Tuyển tập 31 tiêu chuẩn Việt Nam vềmôi trường bắt buộc áp dụng.
[5]. Lâm Minh Triết, Lê Thanh Hải (2006), Giáo trình quản lý chất thải nguy hại, NXB Xây Dựng
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất