Nghiên cứu hình thái Y học biểu mô buồng trứng
Buồng trứng là một cơ quan có nguồn gốc bào thai phức tạp. Ngoài chức năng tạo giao tử, buồng trứng còn là tuyến nội tiết và chịu ảnh hưởng của những tuyến nội tiết khác đặc biệt là vùng dưới đồi và tuyến yên [2], [61]. Do những đặc điểm trên, buồng trứng luôn có những thay đổi rõ rệt về mặt hình thái cũng như chức năng trong suốt cuộc đời của người phụ nữ. Đó là cơ sở dẫn tới những rối loạn không hồi phục, mà từ đó phát triển thành bệnh lý, đặc biệt là sự hình thành các u. Một trong những u phổ biến nhất của buồng trứng là các u biểu mô, chúng có nguồn gốc từ biểu mô bề mặt buồng trứng hoặc từ những nang vùi biểu mô ở vùng vỏ và thường xảy ra ở các phụ nữ ở độ tuổi sinh sản. Các u biểu mô buồng trứng bao gồm nhiều typ biểu mô khác nhau có mô đệm thay đổi từ nhiều tới ít. Đặc tính sinh học của các u buồng trứng khác nhau tùy thuộc vào typ mô học. Chính vì vậy mà các u buồng trứng phức tạp trong cơ chế sinh bệnh và biểu hiện đa dạng về mặt hình thái hơn bất kỳ mô tạng nào khác trong cơ thể người [102].
Ở Việt Nam, ung thư buồng trứng xếp hàng thứ 3 các ung thư ở phụ nữ [1], [8]. Theo nghiên cứu của Đặng Văn Dương, Trần Bằng và Đinh Thế Mỹ tỷ lệ ung thư biểu mô chiếm khoảng 48,30% đến 61,98% tổng số ung thư buồng trứng [6], [17]. Thống kê của bệnh viện K Hà nội từ năm 1991- 1995 cho thấy tỷ lệ ung thư buồng trứng chuẩn theo tuổi là 3,6/100.000 dân, chiếm 4% tổng số các ung thư ở phụ nữ. Theo báo cáo của Nguyễn Bá Đức giai đoạn 2001-2004, tại 5 tỉnh thành, gồm Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế và Cần Thơ, tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng chuẩn theo tuổi / 100.000 dân lần lượt như sau: 4,7 (xếp thứ 6); 2,5 (xếp thứ 8); 1,2 (xếp thứ 12); 2,1 (xếp thứ 9) và 6,5 (xếp thứ 5) [8].
Trên thế giới, tỷ lệ ung thư buồng trứng chiếm khoảng 30% tổng số các ung thư sinh dục nữ [29], ở các nước phát triển ung thư buồng trứng có tỷ lệ tương tự ung thư thân tử cung (35%) và ung thư xâm nhập cổ tử cung (27%) [81], [94]. Tỷ lệ chuẩn theo tuổi trong 100.000 phụ nữ thay đổi từ nhỏ hơn 2 trường hợp mắc mới ở hầu hết các nước Đông Nam Á, và châu Phi tới trên 15 trường hợp mắc mới ở các nước châu Âu, châu Mỹ, trong đó các nước Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc có tỷ lê cao nhất [66]. Ở nước Mỹ, số phụ nữ chết vì ung thư buồng trứng lớn hơn số phụ nữ chết vì các ung thư khác ở vùng tiểu khung công lại. Ngày nay, tỷ lê mắc u buồng trứng ở các nước Tây Âu không thay đổi hoặc có chiều hướng giảm nhẹ, trái lại chúng đang tăng lên ở môt số nước vùng Đông Á [43]. Theo kết quả nghiên cứu của môt số tác giả Nam Mỹ có tới 2/3 các u buồng trứng được phát hiên ở lứa tuổi sinh sản và 5% các u buồng trứng ở trẻ em. Tỷ lê u buồng trứng giảm rõ rêt ở tuổi > 80 [37], [44].
Phụ nữ bị ung thư buồng trứng có tiên lượng xấu, tỷ lê còn sống sau 5 năm là 32% [33]. Ung thư buồng trứng thường không có biểu hiên lâm sàng, nếu có cũng thường kín đáo dễ nhầm với các triệu chứng bênh đường tiêu hóa. Vì lẽ đó có tới 70% bênh nhân bị ung thư buồng trứng được phát hiên ở giai đoạn muôn [35]. Hiên nay có nhiều phương pháp chẩn đoán u buồng trứng, bao gồm chẩn đoán lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, nôi soi, tìm các chất chỉ điểm u (CEA, CA125…) cho phép chẩn đoán u buồng trứng sớm hơn. Đặc biêt phương pháp nhuộm hoá mô miễn dịch với các dấu ấn CK7, CK20, ER, PR cho phép chẩn đoán xác định và/hoặc phân biêt trong môt số trường hợp khó [48], [96], [115], [117], [118], mức đô bôc lô của P53, Her2/neu và Ki67 cho phép đánh giá tiên lượng bênh chính xác hơn [40], [80], [87], [124]. Tuy nhiên, chẩn đoán mô bênh học luôn được coi là tiêu chuẩn vàng trong các phương pháp chẩn đoán u buồng trứng [24], [26], [39].
Ở Viêt nam, tuy có nhiều công trình nghiên cứu về u buồng trứng song hầu hết tập trung ở lĩnh vực lâm sàng mà còn có ít các công trình nghiên cứu về hình thái học, đặc biêt là chưa có công trình nào nghiên cứu về hình thái học các u buồng trứng giáp biên. Xuất phát từ những lý do trên, dựa vào các tiêu chuẩn của phân loại mô học các u buồng trứng của TCYTTG (2003) chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm các mục tiêu sau:
1. Xác định đặc điểm hình thái học của các loại u biểu mô buồng trứng.
2. Nhận xét sự bộc lộ của một số dấu ấn miễn dịch trong các ung thư biểu mô buồng trứng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích