NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG VAN CƠ HỌC ST.JUDE MASTERS Ở BỆNH NHÂN THAY VAN HAI LÁ

NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG VAN CƠ HỌC ST.JUDE MASTERS Ở BỆNH NHÂN THAY VAN HAI LÁ

 Phẫu thuật thay van hai lá (VHL) bằng van cơ học là lựa chọn có hiệu quả cho bệnh nhân (BN) tổn thương VHL. Thăm khám lâm sàng cho 100% BN nghe hoạt động của van cơ học theo nhịp tim, tiếng thổi tâm thu mờ. Trên siêu âm: diện tích lỗ van hiệu dụng: 3,23 ± 0,13 cm². Chênh áp trung bình qua van Gmean: 4,43 ± 2,40 mmHg. Vận tốc đỉnh Vpeak: 1,57 ±  0,32 m/s. Vận tốc trung bình Vmean: 0,90 ± 0,13 m/s. Phổ Doppler dòng chảy qua van có dạng chữ M, 100% BN phát hiện dòng hở sinh lý.

Phẫu thuật tim mạch phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 19. Năm 1949, máy tuần hoàn ngoài cơ thể của Gibbon ra đời giúp cho phẫu thuật tim mạch phát triển vượt bậc. Năm 1952, Hufnagel tiến hành thay van động mạch chủ bằng van tim nhân tạo đầu tiên trên thế giới. Cùng với sự phát triển của phẫu thuật tim mạch, các thế hệ van nhân tạo cũng phát triển theo. Thế hệ van đầu tiên Starr-Edward ra đời năm 1961, đến nay có 26 loại van nhân tạo, chia thành 2 loại chủ yếu: 
– Van sinh học: van dị loài (van tim được làm từ van tim lợn, hay màng tim bò), van ghép tự thân
.- Van cơ học: van bi, van đĩa một cánh, van đĩa hai cánh.
Trong đó, van nhân tạo cơ học St.Jude được lựa chọn cho > 90% các ca thay van ở Mỹ, châu Âu và rất phổ biến ở nước ta [2, 3].
 
Đánh giá hoạt động của van tim nhân tạo để có thể sử dụng nhiều biện pháp, trong đó, siêu âm là biện pháp hiệu quả, tiện dụng và phổ biến nhất hiện nay. Năm 1957, Satomura lần đầu tiên ứng dụng siêu âm vào thăm dò chức năng tim mạch, đến nay siêu âm Doppler vẫn là phương pháp hữu ích trong chẩn đoán, theo dõi và đánh giá kết quả BN mắc bệnh tim

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment