Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trước và sau sinh của các bà mẹ tại các vạn đò thành phố Huế năm 2009
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trước và sau sinh của các bà mẹ tại các vạn đò thành phố Huế năm 2009
Tóm tắt
Từ khóa: Kiến thức, thái độ, thực hành, chăm sóc trước sinh, cư dân vạn đò, cộng đồng vạn đò.
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em là một nội dung quan trọng của chăm sóc sức khoẻ ban đầu và cũng là một ưu tiên hàng đầu của Chính phủ và của Bộ Y tế. Ở Việt Nam, theo các số liệu gần đây, tỷ suất tử vong mẹ là 90/100.000 trường hợp sinh sống và tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 36,7/1000 trẻ sinh ra sống, trong đó tử vong chu sinh chiếm đến 22,3/1000 trẻ sinh ra sống, các tai biến sản khoa còn ở mức cao. Trong số những trường hợp tử vong mẹ, 65% chưa bao giờ đi khám thai và 22% chỉ khám thai một lần. Theo kết quả của một số nghiên cứu, sự hiểu biết và hành vi của chính các thai phụ khi mang thai và sinh đẻ, khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ tại tuyến xã rất khác nhau giữa các vùng: tỷ lệ này cao ở các vùng đồng bằng và thành thị nhưng lại rất hạn chế ở những vùng có điều kiện địa lý không thuận lợi, đặc biệt là vùng sâu vùng núi, vùng có nhóm đối tượng đặc thù như cư dân vạn đò… Đề tài có mục đích đánh giá hiểu biết, thái độ và thực hành chăm sóc trước và sau sinh và tìm hiểu các yếu tố liên quan của các bà mẹ đang cư trú trên các vạn đò thành phố Huế.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định lượng, thiết kế mô tả cắt ngang, tiến hành điều tra phỏng vấn 139 bà mẹ vừa mới sinh con trong vòng 6 tuần, tại cộng đồng dân cư vạn đò từ 1/4/2008 đến 30/3/2009.
Kết quả: 33,8% bà mẹ có hiểu biết tốt và có 65,5% bà mẹ đã có thái độ đúng về chăm sóc trước và sau sinh. Tuy nhiên, có đến 39,6% bà mẹ chưa có thực hành đúng về nội dung này. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa hiểu biết đúng, thái độ đúng và thực hành đúng của các bà mẹ với các yếu tố tuổi bà mẹ, trình độ học vấn, chủ động mang thai trong lần sinh này và cũng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa tình trạng bà mẹ và con lúc sinh với các yếu tố số lần khám thai, tính chất lao động của mẹ và mức tăng cân trong thai kỳ.
Kết luận: Kiến thức và thái độ vẫn còn một khoảng cách với thực hành chăm sóc trước và sau sinh của các bà mẹ ở một cộng đồng vạn đò thành phố Huế, điều này nói lên sự quan tâm về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với cộng đồng này vẫn chưa đạt tính hiệu quả và bền vững bởi vì điều quan trọng trong xây dựng các chương trình can thiệp chăm sóc trước và sau sinh, ngoài việc tăng tính tiếp cận của dịch vụ y tế với cộng đồng này, sự hỗ trợ các chính sách ổn định cuộc sống và cải thiện tốt hơn bối cảnh kinh tế văn hóa xã hội cho các cư dân vạn đò, đặc biệt cho phụ nữ mang thai vẫn còn một khoảng trống trong nghiên cứu này.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất