Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành và giải pháp truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cho phụ nữ dân tộc thiểu số 15-49 tuổi tại một số tỉnh Miền núi phía Bắc
Đại dịch HIV/AIDS xuất hiện từ năm 1981, kể từ khi 5 bệnh nhân AIDS đầu tiên được phát hiện ở Mỹ. Trải qua 30 năm, mặc dù các nước đã có nhiều giải pháp phòng, chống tích cực nhưng dịch vẫn gia tăng nhanh chóng, có những diễn biến phức tạp. HIV/AIDS không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và giống nòi mà còn gây tác hại lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội [1], [97].
Theo báo cáo của Chương trình phối hợp Liên hợp quốc về phòng chống HIV/AIDS, đến 12/2011 thế giới có khoảng 40,8 triệu người nhiễm HIV/AIDS, trong đó phụ nữ 16,2 triệu; trẻ em dưới 15 tuổi 2,8 triệu và hàng năm có khoảng 4,5 triệu người tử vong do AIDS, 95% người nhiễm HIV ở các nước đang phát triển. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong phòng chống nhưng bức tranh toàn cầu về HIV/AIDS vẫn còn hết sức ảm đạm [120].
Ở Việt Nam sau hơn 20 năm, phát hiện trường hợp nhiễm HIV đầu tiên 12/1990, HIV/AIDS vẫn đang trong giai đoạn tập trung, song tại một số tỉnh/ thành phố đã lan ra cộng đồng. Đến 30/6/2012 số lũy tích: nhiễm HIV là 204.019 trường hợp, 58.569 bệnh nhân AIDS còn sống và 61.856 trường hợp đã tử vong do AIDS. Tỷ suất nhiễm HIV trên toàn quốc 218/100.000 dân, 100% tỉnh/thành phố, 98,7% quận/huyện và 78,0% xã/phường có người nhiễm HIV/AIDS [27], [28].
Nhiều tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đặc biệt là các tỉnh Miền núi phía Bắc, đã cảnh báo về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trên người dân tộc thiểu số. Các tỉnh có đường biên giới dài, có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, nhiều tập tục lạc hậu, kinh tế nghèo nàn, quan hệ tình dục cởi mở, giao thông đi lại khó khăn, hoạt động buôn bán chất ma tuý phát triển, kéo theo tệ nạn nghiện chích ma tuý khó ngăn chặn. Dẫn đến tình hình HIV/AIDS ở các tỉnh này không ngừng gia tăng và diễn biến rất phức tạp đối tượng nhiễm không chỉ là người nghiện chích ma tuý, gái mại dâm mà đã lan ra cộng đồng, đặc biệt là những phụ nữ 15-49 tuổi. Sơn La có tỷ suất nhiễm HIV/AIDS 659/100.000 dân, Yên Bái (416/100.000 dân), Cao Bằng (394/100.000 dân) và Lai Châu (250/100.000 dân), cả 100% số huyện/thị xã/thành phố ở 4 tỉnh này có người nhiễm HIV/AIDS. Các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS hiện nay vẫn mang tính gián tiếp, tác động đến sự thay đổi hiểu biết, hành vi nhằm dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS [21], [28], [38].
Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống HIV/AIDS của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số 15-49 tuổi rất hạn chế, tỷ lệ hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS thấp dưới 20,0%, thậm chí dưới 10,0% ở dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao. Đặc thù về trình độ văn hoá, trình độ hiểu biết, hành vi và các biện pháp can thiệp nhóm dân tộc thiểu số rất khác với nhóm người Kinh. Do đó cần có những nghiên cứu để tìm ra được những thông tin đặc thù nhằm phục vụ cho công tác phòng, chống phù hợp và hiệu quả hơn [21], [85]. Phần đông đồng bào dân tộc sử dụng ngôn ngữ phổ thông kém nên gặp khó khăn trong tiếp thu các thông điệp truyền thông bằng tiếng phổ thông trên ti vi, đài, tờ rơi hay sách báo. Do đó, truyền thông phòng chống HIV/AIDS cho phụ nữ độ tuổi sinh đẻ người dân tộc thiểu số tại cộng đồng càng trở lên cấp thiết [72], [97].
Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ Dự án phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam do Ngân hàng Thế giới tài trợ chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về phòng, chống HIV/AIDS của phụ nữ dân tộc thiểu số từ 15-49 tuổi tại 4 huyện của 4 tỉnh Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu và Yên Bái, năm 2009.
2. Đánh giá hiệu quả giải pháp truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống HIV/AIDS cho phụ nữ dân tộc thiểu số từ 15-49 tuổi tại hai xã của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, 2009-2011.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất