Nghiên cứu “kiểu gen ” mầm bệnh, lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn trên bệnh nhân tại miền Bắc Việt Nam
Bệnh sán dây taeniasis do loài sán dây lợn Taenia solium hoặc sán dây bò Taenia saginata hoặc sán dây châu Á Taenia asiatica gây nên. Bệnh ấu trùng sán dây lợn cysticercosis do Cysticercus cellulosae là ấu trùng của Taenia solium gây nên [16] [45]. Hiện nay chỉ phát hiện được ấu trùng sán dây lợn gây bệnh trên người. Đây là bệnh truyền từ động vật sang người. Sán dây trưởng thành sống ký sinh ở ruột người. Chúng chiếm thức ăn, làm giảm khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của đường ruột. Các sản phẩm chuyển hoá của sán dây gây độc cho cơ thể. Đặc biệt là các cơ quan tim mạch, cơ quan tạo máu, hệ thần kinh, tuyến nội tiết, ngoại tiết. Tại ruột sán dây trưởng thành gây viêm ruột, làm rối loạn chức năng ruột. Tuổi thọ của sán dây cao nên tác hại do sán dây gây ra kéo dài, trường diễn. Âu trùng sán dây lợn sống ký sinh ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể người, chủ yếu là dưới da – cơ, mắt, đặc biệt là ở trong và ngoài não chiếm tỉ lệ cao. Ngoài ra ấu trùng sán lợn còn ký sinh ở các cơ quan khác như: dây thần kinh, tuỷ sống, tim, cơ lưỡi, cơ má, cơ miệng. Âu trùng sán lợn có thể sống ký sinh trong cơ thể người 20 – 25 năm. Triệu chứng lâm sàng của bệnh ấu trùng sán lợn là động kinh, co giật, liệt nửa người, yếu vận động, nói ngọng, nhức đầu, các biểu hiện bệnh tùy thuộc vào vị trí ký sinh của ấu trùng. Vấn đề điều trị bệnh ấu trùng sán lợn còn gặp nhiều khó khăn và nan giải [16] [34] [42][47].
Năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thông báo có tới 100 triệu người nhiễm sán dây/ấu trùng sán lợn phân bố ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam [46]. Vấn đề chẩn đoán lâm sàng, cận lâm sàng bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn đã được y văn thế giới đề cập từ lâu và trải qua nhiều thập niên được bổ sung hoàn chỉnh, song cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt ở Việt Nam [52] [61].
Từ trước đến nay chủ yếu xác định loài sinh vật chủ yếu bằng hình thái học (kiểu hình=phenotipe) và phương pháp này đã có nhiều thành tựu lớn. Tuy vậy, do da dạng sinh học của sinh vật, trong đó có hình thái làm cho ta khó phân biệt bằng kiểu hình. Sử dụng gen để định loại sinh vật (kiểu gen=genotipe) là bước tiến bộ mới trong khoa học, phương pháp này đã khác phục được những khiếm khuyết mà kiểu hình mắc phải trong đó có sán dây [24]. Hơn chục năm qua, hàng ngàn bệnh nhân sán dây, bệnh nhân ấu trùng sán lợn và bệnh nhân mắc các bệnh ký sinh trùng khác đã đến khám, theo dõi, cấp cứu, điều trị, tại khoa Khám bệnh chuyên ngành Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương. Trong đó có hàng trăm bệnh nhân sán dây và ấu trùng sán lợn đã được thăm khám và điều trị khỏi bệnh, thoát khỏi bệnh cảnh hiểm nghèo. Việc chan đoán đúng nguyên nhân và chẩn đoán sớm là vấn đề cốt lõi để có hướng điều trị đúng. Nghiên cứu kiểu gen mầm bệnh, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, phân bố bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn là góp một phần nhỏ vào quá trình chẩn đoán đúng bệnh và điều trị thành công đạt kết quả cao. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và quy mô về kiểu gen mầm bệnh, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, phân bố bệnh và điều trị bệnh sán dây trưởng thành và bệnh ấu trùng sán lợn. Đặc biệt bệnh ấu trùng sán lợn, vấn đề điều trị hết sức khó khăn hiện nay. Đã có một số nghiên cứu sử dụng các phác đồ điều trị khác nhau và cho kết quả chưa được như mong đợi. Đây là công trình nghiên cứu cấp thiết về đặc điểm của bệnh sán dây trưởng thành và bệnh ấu trùng sán dây lợn được tiến hành tại Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương [34][41][42]. Từ đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài ‘”Nghiên cứu “kiểu gen ” mầm bệnh, lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn trên bệnh nhân tại miền Bắc Việt Nam” với các mục tiêu sau:
ỉ. Xác định thành phần loài bằng sinh học phân tử (kiểu gen) của sán dây và ấu trùng sán dây lợn trên bệnh nhân điều trị tại viện Sốt rét-Ký sinh trùng -Côn trùng Trung ương.
2. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn.
3. Đánh giá kết quả điều trị bệnh sán dây trưởng thành và bệnh ấu trùng sán lợn bằng praziquantel và albendazol.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích