Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ Lipid huyết thanh và liệu pháp ức chế miễn dịch ở bệnh nhân sau ghép thận

Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ Lipid huyết thanh và liệu pháp ức chế miễn dịch ở bệnh nhân sau ghép thận

Với những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực ghép tạng, ghép thận là sự lựa chọn tốt nhất cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Thành công của việc ghép thận không chỉ là vấn đề phẫu thuật mà còn là quá trình điều trị chống thải ghép và theo dõi các biến chứng sau ghép.
Sau ghép thận, bệnh nhân phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) suốt đời. Ba nhóm thuốc ƯCMD thường được sử dụng là thuốc ức chế calcineurin, thuốc chống chuyển hóa và corti- coid. Việc sử dụng các thuốc ƯCMD thường gây ra các biến chứng như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid, tiểu đường sau ghép…[5, 8]
Sau ghép thận, tăng lipid máu là biến chứng thường gặp, tồn tại dai dẳng và có liên quan đến bệnh  tim  mạch  sau  ghép  [3].  Sử  dụng  thuốc ƯCMD là yếu tố chính ảnh hưởng đến tăng lipid sau ghép thận. Mức độ ảnh hưởng của thuốc ƯCMD đến nồng độ lipid máu phụ thuộc vào loại thuốc và liều lượng thuốc ƯCMD mà bệnh nhân sử dụng [5, 8].
Tại Việt Nam, số bệnh nhân được ghép thận ở trong nước cũng như ở nước ngoài về ngày càng tăng.  Vì  vậy,  việc  điều  trị,  theo  dõi  các  biến chứng sau ghép là vấn đề cấp thiết. Hai thuốc ƯCMD thuộc nhóm ức chế calcineurrin thường được sử dụng tại Việt Nam là cyclosporin và tacrolimus. Mặc dù thuốc ƯCMD có ảnh hưởng rõ rệt đến nồng độ lipid huyết thanh nhưng mức độ và loại thuốc sử dụng có ảnh hưởng như thế nào còn chưa rõ ràng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu:
1.    Xác định nồng độ lipid huyết thanh ở bệnh nhân sau ghép thận.
2.    Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ lipid huyết thanh với việc sử dụng thuốc  ƯCMD và một số yếu tố khác.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Gồm 41 bệnh nhân, có thời gian sau ghép thận ổn định ít nhất 6 tháng, đang được điều trị ngoại trú tại Khoa Thận – Lọc máu bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và chia thành 2 nhóm:
Nhóm 1: gồm 22 bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế calcineurin cyclosporin (neoral).
Nhóm 2: gồm 19 bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế calcineurin tacrolimus (prograf).
Các đối tượng nghiên cứu được lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng, lúc đói, ngay trước khi uống thuốc. Máu được ly tâm lấy huyết thanh làm các xét nghiệm:
Xác định nồng độ cholesterol, triglycerid, HDL- C, LDL – C.
Xác định nồng độ cyclosporin hoặc tacrolimus.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
–    Bệnh nhân sau ghép thận ổn định dựa  vào nồng  độ  creatinin huyết thanh dao  động  trong khoảng bình thường + 30%.
–    Tiêu chuẩn rối loạn lipid huyết thanh  theo hằng số sinh học người Việt Nam năm  1992 và Hội Tim mạch Việt Nam năm 1998:
–    Nồng độ cholesterol huyết thanh ≥5,2 mmol/l.
–    Nồng độ triglycerid huyết thanh ≥2,3 mmol/l.
–    Nồng độ HDL – C huyết thanh ≤ 0,9 mmol/l.
–    Nồng độ LDL – C huyết thanh ≥ 3,4 mmol/l.
2.    Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, cắt ngang.
Các  kỹ  thuật  xét  nghiệm  định  lượng cholesterol, triglycerid, HDL – C, LDL – C, glucose, albumin, creatinin huyết thanh được làm theo các quy trình chuẩn thông thường trên máy Olympus – AU 400 của Nhật.
Định lượng nồng độ cyclosporin bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang phân cực trên máy Ax- sym của Abbott và tacrolimus bằng phương pháp quang phổ trên máy Olympus – AU 400 của Nhật.Các  số  liệu  được  xử  lý  theo  phương  pháp thống kê y học sử dụng phần mềm EPIINFO 6.04.
Các thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) có thể có ảnh hưởng khác nhau đến nồng độ lipid huyết thanh. Mục tiêu: (1) Xác định nồng độ lipid huyết thanh ở bệnh nhân sau ghép thận. (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ lipid huyết thanh với việc sử dụng thuốc ƯCMD và một số yếu tố khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang trên 41 bệnh nhân sau ghép thận ổn định. Nhóm 1: 22 bệnh nhân điều trị bằng cyclosporin; nhóm 2: 19 bệnh nhân điều trị bằng tacrolimus. Kết quả: (1) Tỷ lệ tăng cholesterol huyết thanh là 41,5%. Tỷ lệ tăng triglycerid là 31,7%. Tỷ lệ giảm HDL – C huyết thanh là 19,5%. Tỷ lệ tăng LDL – C huyết thanh là 19,5%. (2) Có sự tương quan giữa nồng độ tacrolimus, liều corticoid, nồng độ albumin huyết thanh, tuổi và BMI với một số thành phần lipid huyết thanh. Kết luận: (1) Tỷ lệ tăng các thành phần lipid huyết thanh là khá cao ở bệnh nhân sau ghép thận. (2) Thuốc ƯCMD làm tăng nồng độ lipid huyết thanh, mức độ ảnh hưởng của thuốc ƯCMD đến nồng độ lipid huyết thanh chưa có sự khác biệt giữa các loại thuốc ƯCMD.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment