Nghiên cứu một số chỉ số hóa sinh huyết thanh ở bệnh nhân sau ghép thận
Các thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) có ảnh hưởng khác nhau đến nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết thanh và biến chứng sau ghép thận. Mục tiêu: 1) Xác định sự thay đổi nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết thanh ở bệnh nhân sau ghép thận. 2) Phân tích ảnh hưởng của thuốc ƯCMD và một số yếu tố khác đến sự thay đổi một số chỉ số hóa sinh huyết thanh. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: 66 bệnh nhân sau ghép thận ổn định. Nhóm A: 32 bệnh nhân điều trị bằng cyclosporin; nhóm B: 34 bệnh nhân điều trị bằng tacrolimus. Kết quả: 1) Nồng độ homocystein huyết thanh là 12,74±4,24ụmol/l, nhóm A là 13,56±3,67ụmol/l, nhóm B là 11,796 ± 4,71 ụmol/l. Tỷ lệ tăng cholesterol huyết thanh là 30,3%. Tỷ lệ tăng triglycerid là 33,3%. Tỷ lệ giảm HDL-C huyết thanh là 15,2%. Tỷ lệ tăng LDL-C huyết thanh là 19,7%. 2) Có sự tương quan giữa liều corticoid, nồng độ albumin huyết thanh, tuổi và BMI với một số thành phần lipid huyết thanh. Có sự tương quan giữa nồng độ homocystein huyết thanh với nồng độ creatinin, acid uric huyết thanh và độ thanh lọc creatinin. Kết luận: 1) Tăng nồng độ homocystein, creatinin, acid uric huyết thanh, tỷ lệ tăng các thành phần lipid huyết thanh là khá cao ở bệnh nhân sau ghép thận. 2) Nồng độ homocystein ở nhóm cyclosporine cao hơn có ý nghĩa so với nhóm tacrolimus. Thuốc ƯCMD làm tăng nồng độ lipid huyết thanh, mức độ ảnh hưởng của thuốc ƯCMD đến nồng độ lipid huyết thanh chưa có sự khác biệt giữa các loại thuốc ƯCMD.
Từ khóa: Ghép thận, thuốc ức chế miễn dịch
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Với những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực ghép tạng, ghép thận là sự lựa chọn tốt nhất cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Thành công của việc ghép thận không chỉ là vấn đề phẫu thuật mà còn là quá trình điều trị chống thải ghép và theo dõi các biến chứng sau ghép.
Sau ghép thận, bệnh nhân phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) suốt đời. Ba nhóm thuốc ƯCMD thường được sử dụng là thuốc ức chế calcineurin, thuốc chống chuyển hóa và corticoid. Việc sử dụng các thuốc ƯCMD thường gây ra các biến chứng như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid, tiểu đường sau ghép… [5].
Sau ghép thận, tăng lipid huyết thanh là biến chứng thường gặp, tồn tại dai dẳng và có liên quan đến bệnh tim mạch sau ghép. Sử dụng thuốc ƯCMD là yếu tố chính ảnh hưởng đến tăng lipid sau ghép thận. Một số yếu tố khác như tuổi, cân nặng, thuốc điều trị tăng huyết áp, chức năng thận, tiểu đường và béo phì cũng ảnh hưởng đến nồng độ lipid ở bệnh nhân sau ghép thận [6].
Tăng homocystein huyết thanh cũng được coi là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh tim mạch do tăng quá trình rối loạn chức năng tế bào nội mô, tăng sinh tế bào cơ trơn, thay đổi hệ thống đổi hệ thống đông cầm máu và oxy hóa [7]. Sau ghép thận, homocystein huyết thanh giảm chứng tỏ chức năng thận được cải thiện nhưng vẫn tăng cao hơn bình thường [9]. Một vài yếu tố liên quan như mất chức năng thận ghép mạn tính, rối loạn lipid huyết thanh, ảnh hưởng của thuốc ƯCMD… có thể ảnh hưởng đến homocystein huyết thanh làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch ở bệnh nhân sau ghép thận.
Tại Việt Nam, số bệnh nhân được phẫu thuật ghép thận (ở trong nước cũng như ở nước ngoài về điều trị) ngày càng tăng. Vì vậy, việc điều trị, theo dõi phòng các biến chứng sau ghép là vấn đề cần thiết. Hai thuốc ƯCMD thuộc nhóm ức chế calcineurrin thường được sử dụng tại Việt Nam là cyclosporin và tacrolimus. Mặc dù thuốc ƯCMD có ảnh hưởng rõ rệt đến nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết thanh nhưng mức độ và loại thuốc sử dụng có ảnh hưởng như thế nào còn chưa rõ ràng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu:
1. Xác định sự thay đổi nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết thanh ở bệnh nhân sau ghép thận.
2. Phân tích ảnh hưởng của thuốc ƯCMD và một số yếu tố khác đến sự thay đổi một số chỉ số hóa sinh huyết thanh
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
* Gồm 66 bệnh nhân, có thời gian sau ghép thận ổn định ít nhất 6 tháng, đang được điều trị ngoại trú tại Khoa Thận- Lọc máu Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và chia thành 2 nhóm:
Nhóm A: Gồm 32 bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế calcineurin cyclosporin (neoral).
Nhóm B: Gồm 34 bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế calcineurin tacrolimus (prograf).
Các đối tượng nghiên cứu được lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng, lúc đói, ngay trước khi uống thuốc. Máu được ly tâm lấy huyết thanh làm các xét nghiệm:
Xác định nồng độ cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C huyết thanh.
Xác định nồng độ homocystein, creatinin, ure, acid uric huyết thanh.
Xác định nồng độ CRP, albumin huyết thanh.
Xác định hoạt độ enzym GOT, GPT huyết thanh.
Xác định nồng độ cyclosporin hoặc tacrolimus.
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
– Bệnh nhân sau ghép thận ổn định dựa vào nồng độ creatinin huyết thanh dao động trong khoảng bình thường + 30%.
– Tiêu chuẩn rối loạn lipid huyết thanh theo hằng số sinh học người Việt Nam năm 1992 và Hội tim mạch Việt Nam năm 1998:
+ Nồng độ cholesterol huyết thanh >5,2 mmol/l.
+ Nồng độ triglycerid huyết thanh >2,3 mmol/l.
+ Nồng độ HDL-C huyết thanh < 0,9 mmol/l.
+ Nồng độ LDL-C huyết thanh > 3,4 mmol/l.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, cắt ngang.
Các kỹ thuật xét nghiệm định lượng cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C và một số chỉ số khác trong huyết thanh được làm theo các qui trình chuẩn thông thường trên máy Olympus- AU 400 của Nhật.
Định lượng nồng độ homocystein bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang phân cực trên máy Axsym của Abbott, bình thường nồng độ homocystein <12 ụmol/l, tốt nhất là < 10 ụmol/l [3].
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học sử dụng phần mềm Stata 10
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích