Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học bệnh viêm loét đại tràng và viêm đại tràng không xác định
Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học bệnh viêm loét đại tràng và viêm đại tràng không xác định.Viêm đại tràng mạn tính (VĐTMT) là tình trạng tổn thương viêm mạn tính của niêm mạc đại tràng qua trung gian miễn dịch, tổn thương có thể khu trú một vùng hoặc lan toả khắp đại tràng. Theo Tổ chức quốc tế về bệnh ruột viêm mạn tính (IOIBD: International Organization of Inflammatory Bowel Diseases) thì bệnh chưa rõ nguyên nhân, có lẽ là có sự phối hợp giữa các yếu tố di truyền và môi trường, bệnh thƣờng có những đợt thuyên giảm và tái phát. Đây là bệnh lý rất phức tạp, gồm 2 thể bệnh chính:
– Viêm đại tràng loét (UC: Ulcerative colitis).
– Bệnh Crohn (CD: Crohn disease).
Ngoài ra, còn một thể bệnh nữa là viêm đại tràng chưa xếp loại (một số tác giả vẫn dùng thuật ngữ “viêm đại tràng không xác định” (Indeterminate colitis). Viêm đại tràng chƣa xếp loại gồm các trƣờng hợp chƣa thể phân định là viêm đại tràng loét hoặc bệnh Crohn nhƣng vẫn mang đủ tiêu chuẩn mô học của nhóm bệnh ruột viêm mạn tính chƣa rõ nguyên nhân này. Nhƣ vậy, một số bệnh viêm mạn tính khác của đại tràng không đƣợc xếp vào nhóm bệnh này, nhƣ viêm đại tràng lympho, viêm đại tràng collagen, viêm đại tràng do lao, viêm đại tràng do amip,…
Bệnh viêm đại tràng mạn tính là bệnh tiêu hóa khá thƣờng gặp. Bệnh hay gặp ở các nƣớc phát triển nhƣ Bắc Mỹ, Bắc Âu và Australia. Tuynhiên, bệnh đang gia tăng mạnh ở một số quốc gia châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, có thể liên quan đến tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng. Bệnh khởi phát từ một đợt viêm đƣờng tiêu hóa cấp tính do nhiễm khuẩn qua đƣờng ăn uống nhƣng do không đƣợc phát hiện và điều trị sớm làm cho các tổn thương ngày càng nặng dần hoặc có thể do ngƣời bệnh đã tự điều trị không đúng cách, không triệt để dẫn đến hiện tƣợng nhờn thuốc, kháng thuốc, cuối cùng trở thành viêm đại tràng mạn tính. Bệnh VĐTMT có thể coi là bệnh hệthống do thƣờng phối hợp với các biểu hiện ngoài ruột khác nhƣ: mắt, da,khớp, thận, gan, đƣờng mật, hệ mạch [2] , [7] . Bệnh hay tái phát, ảnh hƣởngnhiều đến sức khỏe gây trở ngại cho sinh hoạt và công việc thƣờng ngày. Việcđiều trị hiện nay còn gặp nhiều khó khăn không chỉ ở Việt Nam mà còn ởnhiều nƣớc trên thế giới.Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh VĐTMT làm tăng nguy cơ ung thƣbiểu mô đại trực tràng: Trong nghiên cứu của Kim BJ và cộng sự ở Hàn Quốccho thấy nguy cơ ung thƣ đại trực tràng ở bệnh nhân viêm loét ĐT là 0,7%sau chẩn đoán 10 năm; 7,9% sau chẩn đoán 20 năm và tăng lên 33,2% sauchẩn đoán 30 năm [55]. Theo nghiên cứu của Bernstein và cộng sự, nguy cơung thƣ đại trực tràng trên bệnh nhân viêm loét đại tràng tăng khoảng 7-14%sau 25 năm bị bệnh [8] . Đối với bệnh Crohn nguy cơ ung thƣ đại tràng caonhất ở các bệnh nhân mắc bệnh Crohn trước 25 tuổi và có tổn thƣơng ruộttrên diện rộng [8] , [9] . Theo Canavan C, nguy cơ ung thƣ đại trực tràng ởbệnh nhân mắc bệnh Crohn là 2,9% sau chẩn đoán 10 năm; 5,6% sau chẩnđoán 20 năm và tăng lên 8,3% sau chẩn đoán 30 năm [56].Vì các lý do nêu trên nên em xin tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học bệnh viêm loét đại tràng và viêm đại tràng không xác định” nhằm mục tiêu:Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học bệnhviêm loét đại tràng và viêm đại tràng không xác định