NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ TUỔI, SIÊU ÂM VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA MẬT ĐỘ PSA VỚI MÔ BỆNH HỌC Ở BỆNH NHÂN U TIỀN LIỆT TUYẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ TUỔI, SIÊU ÂM VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA MẬT ĐỘ PSA VỚI MÔ BỆNH HỌC Ở BỆNH NHÂN U TIỀN LIỆT TUYẾN
Nguyễn Văn Mão
Trường Đai học Y Dược Huế
Tóm tắt
Giới thiệu: Mật độ PSA được tính bằng tỉ số nồng độ PSA trên thể tích tuyến có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng khả năng chẩn đoán cũng như sàng lọc và theo dõi các bệnh lý tiền liệt tuyến, đặc biệt ở ung thư và quá sản lành tính. Mục tiêu: (i) Mô tả một số đặc điểm tuổi, siêu âm ở bệnh nhân ung thư và quá
sản dạng nốt lành tính tiền liệt tuyến; (ii) Xác định mối liên quan giữa mật độ PSA với mô bệnh học ở bệnh nhân ung thư và quá sản dạng nốt lành tính tiền liệt tuyến. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả trên 70 bệnh nhân, trong đó có 35 bệnh nhân ung thư biểu mô tiền liệt tuyến và
35 bệnh nhân quá sản dạng nốt lành tính tiền liệt tuyến. Kết quả: (i) Tuổi trung bình tương đương nhau ở cả 2 nhóm bệnh là 73 tuổi đối với ung thư và 75 tuổi đối với quá sản lành tính. 100% các trường hợp đều được phát hiện tổn thương bằng siêu âm, trọng lượng trung bình của ung thư là 57,3g cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê so với quá sản lành tính 46,9g. (ii) Mật độ PSA trong ung thư (1,22) cao hơn nhiều so với quá sản lành tính tuyến tiền liệt (0,10). Với ngưỡng Mật độ PSA > 0,15 thì ung thư chiếm tỷ lệ 78,4%, quá sản lành tính chỉ chiếm tỷ lệ 21,6%, độ nhạy của mật độ PSA là 82,9% và độ đặc hiệu là 77,1%. Kết luận: Bên cạnh xét nghiệm PSA toàn phần thì việc xác định mật độ PSA bằng kết hợp giữa xét nghiệm PSA toàn phần và siêu âm cần được áp dụng trong chẩn đoán và sàng lọc bệnh u tiền liệt tuyến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Dũng (2005), Đánh giá kết quả phẫu thuât hở u xơ tiền liêt tuyến theo thang điểm IPS, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Đình Hối (2005), “Siêu Âm ngã trực tràng và sinh thiết tuyến tiền liệt”, Y học TP Hồ Chí Minh tâp 9, số 2, Đại học Y Dược Tp.HCM, trang 65-67.
3. Nguyễn Văn Hùng (2004), Nghiên cứu giá trị chẩn đoán của PSA ở bênh lý tiền liêt tuyến tai Bênh viên Trung ương Huế, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
4. Nguyễn Văn Hưng (2005), Nghiên cứu mô bênh học quá sản lành tính, tân sản nôi biểu mô và ung thư biểu mô tuyến tiền liêt, Luận án tiến sỹ y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Đỗ Khánh Hỷ (2003), Nghiên cứu môt số đặc điểm dịch tễ học của u phì đai tuyến tiền liêt và đánh giá vai trò của PSA huyết thanh trong chẩn đoán và tiên lượng bênh, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Liên (2011), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm qua trực tràng trong xác định ung thư tuyến tiền liệt, luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội.
7. Phạm Minh Thông, Nguyễn Khôi Việt (2012), Siêu âm tuyến tiền liệt’’, Siêu âm tổng quát, NXB Đại học Huế, trang 251-271.
8. Hồ Đức Thưởng (2012), Nghiên cứu mô bênh học và tỷ lê bôc lô môt số dấu ấn miễn dịch trên các mảnh sinh thiết kim ung thư biểu mô tuyến tiền liêt,42 Tạp chí Y Dược học – Trường Đại học Y Dược Huế – Số 32 Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội.
9. Trần Viết Tiệp (2006), “Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trên bệnh nhân u phì đại lành tính tuyến tiền liệt phẫu thuật tại BV Việt NamThụy Điển Uông Bí’’, Y học thực hành-Số 8/2006, trang 17-18.
10. Nguyễn Bửu Triều, Vũ Nguyễn Khải Ca, Nguyễn Phương Hồng (2000), Những thành tựu mới trong chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến tiền liệt, Tap chí ngoai khoa (3), trang 1-
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất