Nghiên cứu những yếu tố nguy cơ chửa ngoài tử cung nhắc lại

Nghiên cứu những yếu tố nguy cơ chửa ngoài tử cung nhắc lại

Chửa ngoài tử cung (CNTC) đang có xu hướng tăng cả trong và ngoài nước. Một lần CNTC có thể dẫn  đến CNTC lần 2 thậm  chí lần thứ 3 và tần suất  của các lần chửa ngoài tử cung nhắc lại (CNTCNL) cũng đang tăng sau này. Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về CNTCNL ở Việt Nam và trên thế giới, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu : Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ gây CNTC nhắc lại.

II. Đối tượng và phương pháp

CNTCNL ngoài những nguy cơ đe doạ tới tính mạng  do chảy máu thì có thể nói gần như chắc chắn là không  còn khả năng thụ thai tự nhiên nữa. Hiện nay với tiến bộ của y học, chẩn  đoán và điều trị  CNTC đã  có nhiều thành công trong đó có bảo tồn VTC, nhưng điều  trị bảo tồn VTC cũng làm tăng nguy cơ CNTC nhắc lại. Một người đã bị CNTC thì có tới 50% có nguy cơ CNTCNL. Nghiên cứu những yếu tố nguy cơ để dự phòng hoặc giúp chẩn  đoán sớm, điều  trị sớm nhằm giảm tác động xấu của CNTC nhắc lại sẽ góp phần làm tăng sự thành công của điều  trị sinh sản

Phương  pháp nghiên  cứu:  thực hiện theo phương pháp nghiên cứu hồi cứu  cắt ngang so sánh.

Nhóm 1 là  những người  bị  CNTCNL. Thực hiện theo nghiên cứu mô tả cắt ngang so sánh giữa hai nhóm nhằm xác định một số yếu tố nguy cơ của CNTCNL sau khi đã bị CNTC lần đầu nên cỡ mẫu  tối thiểu đã được tính toán cho nghiên cứu của nhóm CNTCNL là 185 trường  hợp, lấy thêm 10% số bệnh nhân để dự phòng cho các trường hợp bệnh án thông tin thu thập  không đầy đủ vì vậy N nghiên cứu cuối cùng là 210.

Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang so sánh 420 trường hợp bị CNTC (210 CNTCNL nhắc lại và 210
CNTC lần đầu), có kết quả sau:
Tỷ lệ CNTCNL trong 2002 – 2003  là 11,5 %. Tuổi trung bình của CNTCNL là 32 ±± 5,06. Thời gian xuất hiện của CNTCNL thường là trong vòng 2 năm kể từ khi CNTCI (44,4%).
Một số yếu tố nguy cơ của CNTCNL: Tuổi = 31 có nguy cơ bị CNTCNL gấp 1,71 lần  với p < 0,05; Viêm phần phụ làm tăng nguy cơ mắc CNTCNL lên 2,68 lần (p < 0,05);. Tiền sử điều  trị vô sinh làm tăng nguy cơ mắc CNTCNL lên 4,32 p < 0,05. Phụ nữ có tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung làm tăng nguy cơ mắc CNTCNL lên 3,19 lần với p < 0,05
Nạo hút thai, sẩy thai làm tăng nguy cơ mắc CNTCNL và nguy cơ tăng tỷ lệ thuận với số lần nạo hút thai, sẩy thai.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment