Nghiên cứu những yếu tố nguy cơ chửa ngoài tử cung nhắc lại
Nghiên cứu hổi cứu mô tả cắt ngang so sánh 420 trường hợp bị CNTC (210 CNTCNL nhắc lại và 210 CNTC lần đầu), có kết quả sau:
-Tỷ lệ CNTCNLtrong 2002 -2003 là 11,5 %. Tuổi trung bình của CNTCNL là 32 ± ‘5,06. Thời gian xuất hiện của CNTCNL thường là trong vòng 2 năm kể từ khi CNTC, (44,4%).
– Một số yếu tố nguy cơ của CNTCNL: Tuổi = 31 có nguy cơ bị CNTCNLgấp 1,71 lần với p < 0,05; Viêm phần phụ làm tăng nguy cơ mắcCNTCNL lên 2,68 lần (p < 0,05);. Tiền sửđiều trị vô sinh làm tăng nguy cơ mắcCNTCNL lên 4,32 p < 0,05. Phụ nữcó tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung làm tăng nguy cơ mắcCNTCNLIên 3,19 lần với p<0,05
– Nạo hút thai, sẩy thai làm tăng nguy cơ mắc CNTCNL và nguy cơ tăng tỷ lệ thuận với số lần nạo hút thai, sẩy thai.
Chửa ngoài tử cung (CNTC) đang có xu hướng tăng cả trong và ngoài nước. Một lẩn CNTC có thể dẫn đến CNTC lẩn 2 thậm chí lẩn thứ 3 và tần suất của các lẩn chửa ngoài tửcung nhắc lại (CNTCNL) cũng đang tăng lên. Những lẩn CNTCxảy ra sau lẩn thứ nhất được gọi là CNTC nhắc lại (tiếng Anh gọi là repeat ectopic pregnancy và tiếng Pháp gọi là grossesses extra – uterines re’cidivant) có thể xảy ra tại vòi tử cung (VTC), ngay tại vị trí CNTC lẩn trước được điều trị bảo tồn nhưng cũng có thể xảy ra ở vòi tửcung đối diện hoặc ở nơi khác. Nếu CNTC lẩn một đã là mối đe dọa rất cao đối với khả năng sinh sản thì CNTCNL ngoài những nguy cơ đe doạ tới tính mạng do chảy máu thì có thể nói gần như chắc chắn là không còn khả năng thụ thai tự nhiên nữa. Hiện nay với tiến bộ của y học, chẩn đoán và điều trị CNTC đã có nhiều thành công trong đó có bảo tồn VTC, nhưng điều trị bảo tồn VTC cũng làm tăng nguy cơ CNTC nhắc lại. Một người đã bị CNTC thì có tới 50% có nguy cơ CNTCNL. Nghiên cứu những yếu tố nguy cơ để dựphòng hoặc giúp chẩn đoán sớm, điều trị sớm nhằm giảm tác động xấu của CNTC nhắc lại sẽ góp phẩn làm tăng sự thành công của điều trị sinh sản sau này. Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về CNTCNL ở Việt Nam và trên thế giới, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu : Tìm hiểu một số yếu tô’ nguy cơ gây CNTC nhắc lại.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: những bệnh nhân điều trị CNTC tại khoa Phụ 1, Bệnh viên Phụ sản trung ương (BVPSTƯ) trong năm 2002 và 2003, tất cả các bệnh nhân đều đã được mổ và kết quả mô bệnh học khẳng định chắc chắn là CNTC vì có tổ chức rau thai trên mẫu xét nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu: thực hiện theo phương pháp nghiên cứu hổi cứu cắt ngang so sánh.
– Nhóm 1 là những người bị CNTCNL. Thực hiện theo nghiên cứu mô tả cắt ngang so sánh giữa hai nhóm nhằm xác định một số yếu tố nguy cơ của CNTCNL sau khi đã bị CNTC lẩn đẩu nên cỡ mẫu tối thiểu đã được tính toán cho nghiên cứu của nhóm CNTCNL là 185 trường hợp, lấy thêm 10% số bệnh nhân để dự phòng cho các trường hợp bệnh án thông tin thu thập không đẩy đủ vì vậy N nghiên cứu cuối cùng là 210.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích