NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ ADIPONECTIN HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 PHÁT HIỆN LẦN ĐẦU CÓ BIẾN CHỨNG TIM MẠCH
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa glucid mạn tính khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. ĐTĐ typ 2 chiếm chủ yếu trong các typ ĐTĐ. Một nghiên cứu ở Mỹ năm 2007 cho thấy có khoảng 14 triệu người Mỹ mắc ĐTĐ và tỷ lệ ĐTĐ typ 2 chiếm trên 90 % [1]. Khi nghiên cứu về cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ typ 2, người ta thấy có hai vấn ñề chủ ñạo, ñó là sự suy giảm chức năng các tế bào bêta của tụy gây nên những rối loạn bài tiết insulin và sự kháng lại tác dụng của insulin ở mô ñích (gan, cơ vân, mô mỡ). Kháng insulin có từ rất sớm, trước khi có tăng glucose máu. Ở giai ñoạn sớm, kháng insulin là cơ sở ñể có biện pháp can thiệp ngăn chặn quá trình tiến triển ñến ĐTĐ lâm sàng. Giai ñoạn muộn, kháng insulin là chỉ số cần thiết ñể tiên lượng bệnh, nhất là tiên lượng các biến chứng tim mạch. Trong cơ thể, adiponectin ức chế quá trình tổng hợp glucose ở gan, kích thích quá trình β- oxi hóa acid béo ở gan; kích thích quá trình β- oxi hóa acid béo và tăng hấp thu glucose ở cơ; kích thích sự bài tiết insulin, tăng nhạy cảm với insulin của các mô ngoại vi [5, 6, 9]. Nhiều nghiên cứu khẳng ñịnh rằng, sự giảm nồng ñộ adiponectin huyết thanh là một yếu tố nguy cơ ñộc lập của bệnh ĐTĐ typ 2 [6, 8]; mức adiponectin thấp có giá trị tiên lượng,dự báo tình trạng kháng insulin một trong những yếu tố nguy cơ tim mạch. Tại Việt Nam, rất nhiều nghiên cứu về bệnh ĐTĐ typ 2 và tình trạng kháng insulin ở bệnh ĐTĐ typ 2 ñã ñược thực hiện. Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu về adiponectin và vai trò của nó trong bệnh ĐTĐ typ
2. Chính vì vậy, ñề tài: “Nghiên cứu nồng ñộ adiponectin huyết thanh ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 phát hiện lần ñầu có biến chứng tim mạch” ñược thực hiện với mục tiêu:
1. Xác ñịnh nồng ñộ adiponectin huyết thanh ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 phát hiện lần ñầu có và chưa có BCTM.
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng ñộ adiponectin huyết thanh với một số chỉ số hoá sinh khác ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 phát hiện lần ñầu có và chưa có BCTM.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: Nghiên cứu trên 137 bệnh nhân ĐTĐ và 56 người bình thường.
Nhóm bệnh ĐTĐ typ 2: Nhóm ĐTĐ typ 2 chưa có BCTM n = 106 ñược ñiều trị ngoại trú tại khoa Nội tiết bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện C – Đà Nẵng từ tháng 11/2009 ñến tháng 10/2010 có ñộ tuổi từ 39 ñến 70. Nhóm ĐTĐ typ 2 có BCTM n = 31 nhập viện tại C3 bệnh viện Bạch Mai Hà Nội từ tháng 11/2009 ñến tháng 10/2010 tuổi từ 39 ñến 70 nhóm (II).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích