NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ ASYMMETRIC DIMETHYLARGININE HUYẾT TƯƠNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI
NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ ASYMMETRIC DIMETHYLARGININE HUYẾT TƯƠNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI
Hoàng Trọng Ái Quốc1, Võ Tam2, Hoàng Viết Thắng2
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược – Đại học Huế
(2) Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định nồng độ Asymmetric Dimethylarginine (ADMA) huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) chưa được điều trị lọc máu chu kỳ; đánh giá mối liên quan giữa nồng độ ADMA với một số yếu tố nguy cơ tim mạch (YTNCTM) ở các bệnh nhân này. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang có đối chứng. Nồng độ ADMA huyết tương và các thông số khác được đo ở 30 bệnh nhân BTMGĐC chưa điều trị lọc máu chu kỳ và 30 người khỏe mạnh đối chứng. Nồng độ ADMA huyết tương được xác định bằng phương pháp phân tích hấp thụ miễn dịch liên kết enzyme (ELISA) trên máy EvolisTM Twin Plus. Các kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 19.0. Kết quả: Nồng độ trung bình ADMA huyết tương ở bệnh nhân BTMGĐC chưa lọc máu chu kỳ là 0,88 ± 0,27 µmol/L và ở người khỏe mạnh là 0,49 ± 0,13 µmol/L (sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,01). Nồng độ trung bình ADMA của nam và nữ không khác nhau (p>0,05). Tương quan giữa ADMA với BMI (r=- 0,31, p<0,05). Tương quan giữa nồng độ ADMA với nồng độ Hb (r=-0,58, p<0,01) và Hct (r=-0,60, p<0,01). Tương quan giữa nồng độ ADMA với MLCT (r=-0,63, p<0,01). Kết luận: Nồng độ trung bình ADMA huyết tương ở bệnh nhân BTMGĐC chưa lọc máu chu kỳ tăng cao có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ ADMA với BMI, với nồng độ Hb, với Hct và với MLC
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất