Nghiên cứu nồng độ homocystein, acid folic và vitamin b12 huyết tương ở bệnh nhân nhồi máu não
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não có nhiều yếu tố nguy cơ (YTNC), khi kết hợp càng nhiều YTNC thì tỷ lệ đột quỵ não càng tăng. Theo kinh điển các YTNC của ĐQN được chia thành hai nhóm chính: nhóm không cải biến được và nhóm có thể cải biến được. Nhiều nghiên cứu gần đây đã khẳng định tăng nồng độ homocystein trung bình là YTNC có thể kiểm soát được của bệnh lý tim mạch và đột quỵ não. Tăng nồng độ homocystein (Hcy) trong huyết tương làm tổn thương nội mạc động mạch, từ đó khởi phát tiến trình xơ vữa động mạch (XVĐM), hình thành huyết khối gây nghẽn mạch hoặc tắc động mạch não.
Homocystein là một acid amin có chứa lưu huỳnh được tạo thành trong quá trình chuyển hóa methionine. Trong chu trình chuyển hóa Hcy thì acid folic, vitamin B12 và vitamin B6 đóng vai trò là coenzym tham gia vào chuyển hóa thoái dáng Hcy máu. Mặt khác, một số nghiên cứu gần đây cho thấy acid folic có vai trò riêng là chất chống oxy hóa. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy có mối liên quan giữa tăng nồng độ Hcy máu với sự giảm acid folic và vitamin B12 huyết tương.
Nghiên cứu về nồng độ homocystein, acid folic và vitamin B12 huyết tương; cũng như mối liên quan giữa Hcy với acid folic và vitamin B12 ở bệnh nhân NMN chưa được thực hiện ở Việt Nam. Để có căn cứ điều trị bổ xung acid folic và vitamin B12 trong dự phòng đột quỵ não, cũng như làm sáng tỏ hơn bệnh sinh về xơ vữa động mạch trong đột quỵ nhồi máu não, đề tài nghiên cứu với ba mục tiêu:
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của nhồi máu não giai đoạn cấp.
2. Đáng giá nồng độ homocystein, acid folic và vitamin B12 huyết tương ở bệnh nhân nhồi máu não.
3. Nghiên cứu mối tương quan giữa nồng độ homocystein với acid folic và vitamin B12 huyết tương ở bệnh nhân nhồi máu não.
ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
– Kết quả định lượng nồng độ Hcy TB ở nhóm bệnh là 14,96 ± 4,73µmol/l, cao hơn nhóm chứng (12,25 ± 4,34µmol/l) với p<0,0001. Tỷ lệ tăng nồng độ Hcy máu (>15µmol/l) là 42,6% ở nhóm bệnh, cao hơn nhóm chứng (19,9%) với p<0,0001. Nồng độ acid folic TB của nhóm nghiên cứu là 8,74 ± 4,95 ng/ml, thấp hơn nhóm chứng (13,02 ± 6,18 ng/ml) với p<0,0001. Nam giới nồng độ acid folic là 7,96 ± 4,65 ng/ml, thấp hơn ở nữ giới (10,21 ± 5,2 ng/ml) với p<0,01. Nồng độ vitamin B12 TB nhóm bệnh là 542,72 ± 357,75 pg/ml, thấp hơn nhóm chứng (587,98 ± 296,39 pg/ml), nhưng không khác biệt với p>0,05.
– Tăng homocystein máu là YTNC độc lập của đột quỵ NMN: điểm cắt Hcy huyết tương >15µmol/l, thì nguy cơ đột quỵ tăng gấp 3 lần, nếu điểm cắt Hcy> 14µmol/l thì nguy cơ NMN tăng gấp 2,6 lần so với nhóm chứng. Có sự tương quan nghịch giữa nồng độ Hcy và acid folic huyết tương ở bệnh nhân ĐQ NMN theo phương trình tuyến tính: y = 17,293 – 0,266.x; với hệ số tương quan r = -0,282 và p <0,01. Không có sự tương quan giữa Hcy với vitamin B12 ở nhóm bệnh.
– Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa giảm acid folic với tăng homocystein máu và tăng nguy cơ ĐQNMN. Đây là cơ sở tiến hành điều trị bổ sung acid folic dự phòng ĐQNMN ở người Việt Nam.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích