NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ CÁC LOẠI UNG THƯ DA TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2007 – 2010
Khảo sát tình hình ung thư da bệnh viện Da liễu Trung ương (BVDLTW). Đối tượng và phương pháp: Phương pháp mô tả cắt ngang dựa trên dữ liệu của 856 bệnh nhân ung thư da đến khám và điều trị tại BVDLTW. Kết quả: Trong thời gian 4 năm từ 1/2007 đến 12/2010 đã có 856 bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư da, trong đó 58,8% là ung thư tế bào đáy, 32,2% ung thư tế bào vảy, 4,8% ung thư hắc tố cũng và 4,2% là các ung thư da khác. Số bệnh nhân ung thư da năm 2010 gấp hơn 2,6 lần so với số bệnh nhân năm 2007. Tỷ lệ nam/nữ là 1,2. Có 64,25% bệnh nhân trên 60 tuổi và 61% bệnh nhân sống ở nông thôn. Kết luận: Số lượng bệnh nhân ung thư da đến khám và điều trị tại bệnh viện Da liễu Trung ương ngày càng tăng. Ung thư tế bào đáy gặp nhiều nhất trong các loại ung thư da. Gần 2/3 số bệnh nhân trên 60 tuổi. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ và phần lớn bệnh nhân sống ở nông thôn.
Ung thư da gồm nhiều loại u ác tính khác nhau xuất phát từ các tế bàobiểu mô của da. Ba loại ung thư da thường gặp nhất là ung thư tế bào đáy (Basal cell carcinoma – BCC), ung thư tế bào vảy (Squamous cell carcinoma – SCC) và ung thư tế bào hắc tố (Malignant melanoma). Một số loại ung thư da hiếm gặp hơn như ung thư tế bào Merkel, ung thư tế bào xơ, angio-fibrosarcoma.
Ở Mỹ, ung thư da cao gấp 5 lần ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến [10]. Ở Úc, ung thư da chiếm khoảng 1% dân số và cao gấp 3 lần ung thư khác cộng lại [8]. Ở Việt Nam, theo ghi nhận ung thư ở Hà Nội từ 1992 – 1996, cho thấy tỷ lệ mắc ung thư da là 2,9 – 4,5/100.000 dân [4]. Theo báo cáo của Lê Trần Ngoan năm 2005 – 2006, tỷ lệ chết do ung thư da ở nước ta từ 0,2 – 0,4/100.000 dân [2].
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích