Nghiên cứu phân lập và nuôi cấy In vitro tế bào gan phôi thai Người
Tế bào gốc được xem như một nguồn tế bào tiềm năng cho việc khôi phục và tái tạo lại những tổn thương của mô và cơ quan. Chúng có khả năng tự làm mới và biệt hoá thành các loại tế bào khác nhau, từ đó có thể biệt hoá thành các mô và cơ quan đặc hiệu [1]. Tế bào gốc được chia thành hai nhóm lớn: tế bào gốc phôi và tế bào gốc trưởng thành. Mỗi loại đều có những tiềm năng khác nhau về khả năng biệt hóa và khả năng ứng dụng. Gan là một cơ quan đích mà ở đó, khả năng ứng dụng các nghiên cứu vể việc sử dụng tế bào gốc vào điều trị đã và đang mang lại những dấu ấn đáng ghi nhận [2].
Trong cơ thể, gan là một trong các cơ quan có khả năng tái tạo lại cao nhất sau khi bị tổn thương, tuy nhiên có rất nhiều bệnh lý của gan làm cho tế bào gan bị tổn thương không hồi phục, rối loạn chức năng và dẫn đến suy gan.
Cắt bỏ gan một phần cho đến nay đã không còn được áp dụng, vì chỉ còn lại rất ít các tế bào có khả năng đảm nhiệm các chức năng bình thường của gan. Ghép gan hiện nay là phương pháp điều trị hiệu quả duy nhất cho các tổn thương gan trầm trọng. Tuy nhiên, vì lý do thải ghép và số lượng người cho gan rất hạn chế, nên các phương pháp điều trị khác vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, tế bào gốc đã và đang là một “nguồn cho” vô tận, có thể thay thế các tế bào gan và tái tạo lại vùng gan bị tổn thương [2].
Có rất nhiều nguồn tế bào gốc được sử dụng để biệt hoá thành tế bào gan (hepatocyte – like cell), như tế bào gốc phôi (ES) [3], tế bào gốc ở người trưởng thành (Adult stem cell) có nguồn gốc từ tuỷ xương (HSCs, MSCs) [4], từ mô mỡ (MSCs) (4), từ máu cuống rốn (MSCs) [4], từ nước ối (MSCs) [5], từ gai rau (MSCs) [6], từ gan (OCs) [7].
Với mục đích nghiên cứu biệt hoá tế bào gan invitro và invivo, năm 2006, bệnh viện Nhi Trung ương đã thực hiện đề tài cấp bộ mang tên: “Nghiên cứu ghép tế bào gan phôi thai người để điều trị một số bệnh gan chuyển hoá di truyền ở trẻ em”. Đề tài sử dụng nguồn tế bào gan phôi thai người. Đây là loại tế bào có đặc tính của tế bào gốc (bi – potent), chúng thể hiện hai loại dấu ấn sinh học của tế bào gan và tế bào đường mật.
Trong quá trình phát triển của phôi thai, gan được hình thành từ mầm của lá thai trong (tuần thứ 3 của thai kỳ ở người) cùng với sự ra đời của một phần phổi, tuỵ và tuyến giáp. Những tế bào này nhân lên, hình thành một phần chính là nguồn gốc của gan, bao gồm các tế bào gan phôi thai, sau này sẽ biệt hoá thành tế bào gan và tế bào đường mật [8].
Về khả năng ghép, tế bào gan phôi thai có nhiều ưu điểm hơn tế bào gan trưởng thành. Kích thước của chúng nhỏ hơn, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình vượt khỏi hàng rào nội mô của xoang tĩnh mạch để xâm nhập vào nhu mô gan. Khả năng nhân lên cao hơn, và có thể thu được hiệu quả điều trị tốt hơn với số lượng tế bào ít hơn.
Với các lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:
1. Phân lập và nuôi cấy invitro tế bào gan phôi thai người
2. Nghiên cứu đặc tính sinh học invitro của tế bào gan phôi thai người
3. Nghiên cứu hiệu quả đánh dấu của hai loại marker khác nhau, lựa chọn vào nghiên cứu invivo.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phân lập và nuôi cấy tế bào gan phôi thai người
Phân lập tế bào gan phôi thai người
Gan phôi thai người từ 10 – 13 tuần tuổi được thu thập từ các trường hợp phá thai tự nguyện của bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Các mảnh gan được phân lập ra khỏi các tổ chức khác của thai nhi bằng mắt thường hoặc với sự trợ giúp của kính hiển vi, sau đó sẽ được phân lập thành tế bào gan theo phương pháp của Mahieu – Caputo tại phòng thí nghiệm 00 – 20, bệnh viện Kremlin Bicetre. Các mảnh gan này sau khi được rửa hai lần bằng dung dịch rửa HEPES, 500rpm/ phút trong 2 phút, sẽ được phân tách bằng dung dịch Collagenase A type 3 ở 370C trong 1 giờ, nồng độ từ 1 đến 2mg/ml tuỳ theo tuổi thai. Hỗn hợp tế bào sau khi phân tách được lọc qua một màng lọc 70µm, ly tâm 500 rpm/phút trong 5 phút. Khối tế bào thu được sẽ được rửa 3 lẩn bằng môi trường nuôi cấy tế bào gan. Cuối cùng, các tế bào sẽ được đánh giá về số lượng và tỷ lệ sống bằng nhuộm với trypan blue (đánh dấu nhân các tế bào chết) trên kính hiển vi thường.
Nuôi cấy tế bào gan phôi thai người
Tế bào gan sau khi phân lập được nuôi cấy trong đĩa Petri (Corning, 25000 tế bào/cm2) với môi trường nuôi cấy tế bào gan trong vòng năm ngày. Môi trường nuôi cấy này được thay thế bằng một loại môi trường dinh dưỡng khác vào các ngày sau đó là DMEM – HAM’S F12 medium William E (Sigma), bao gồm thêm các thành phần sau: Penicillin 100Ul/ml; Streptomycin 100µg/ml (Gibco), 2mM Gluta- mine (Gibco), 0.1% Serum Bovine Albumine (Sigma), 10-6M 3 – 3’ – Triiodo – L – Thyronine (T3) (Sigma), 10-6M Hydrocortisone (MP), 10-8M Insuline (MP), 0.24% acide linoleique (2: 1) (Sigma), 1mg/ml apo – transferrine (Sigma) và 100 µg/ml Vitamine C (Roche)
2. Hoá miễn dịch tế bào
Tế bào gan phôi thai người sau khi được nuôi cấy trong vòng 5 ngày, tế bào được đánh giá về các marker đặc hiệu cho tế bào gan và tế bào đường mật, bằng phản ứng hoá miễn dịch tế bào. Sau khi được rửa ba lần với PBS 1X, tế bào được cố định trong 5 phút ở nhiệt độ phòng bằng PBS – triton 0,1% cho loại kháng thể anti- cytokeratin (CK), và bằng PBS – PFA (Paraformadehyde 4%) cho các loại kháng thể khác. Sau đó, tế bào được rửa 3 lần bằng PBS 1X và ủ trong PBS – Gelatine 1% trong 1h. Sau đó, tế bào lần lượt được ủ với các loại kháng thể khác nhau (1/100) (Dako): anti – albumin, anti alpha – 1 – trypsine, anti – CK19, anti – CK8/18, anti – CK7, anti – E – cadherine. Kháng thể thứ nhất được phát hiện bới kháng thể thứ hai gắn tín hiệu huỳnh quang FITC (1/1500) (Dako). Cuối cùng, tiêu bản đựoc phủ một lớp DAPI antiface, cho phép xác định nhân tế bào dưới kính hiển vi huỳnh quang.
3. Đánh dấu tế bào gan phôi thai người invitro
Với mục đích để đưa tế bào vào các thử nghiệm invivo, các tế bào trước khi ghép cần được đánh dấu. Hai loại chất đánh dấu được thử nghiệm. CFSE (Carboxy fluorescein diacetate succinimidyl ester), là chất đánh dấu màng nhân và bào tương. Hoechst là chất đánh dấu vào chất nhân của tế bào.
3.1 Hoechst
Ủ 20 x 106 tế bào trong 2ml môi trường không có FBS với 10µl Hoechst (Sigma) trong 30 phút ở 370C. Hoà tan khối tế bào với 10ml môi trường có FBS pha loãng 1/10 để kết thúc phản ứng. Rửa khối tế bào 3 lần, nuôi cấy và kiểm tra dưới kính hiển vi huỳnh quang.
3.2. CFSE
CFSE stock ở 5mM, được pha loãng với các nồng độ khác nhau: 4µM, 8µM, 10µM trong môi trường không có FBS, để có được nồng độ pha loãng cuối cùng trong khối tế bào là 1µM, 4µM, 5µM, ủ trong 10 phút ở 370C. Sau đó, một khối lượng gấp đôi số thể tích của tế bào được cho vào để kết thúc phản ứng, và tế bào được ủ trong đá lạnh khoảng 5 phút. Rửa khối tế bào 3 lần, nuôi cấy và kiểm tra dưới kính hiển vi huỳnh quang.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích