Nghiên cứu phẩu thuật đặt thể thuỷ tinh nhân tạo trên mắt đục thể thuỷ tinh sau viêm màng bồ đào.
Đục thẻ thủy tinh ( ‘ITT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở nước ta cũng như nhiều nước khác trôn thố giới. Hiện nay, phương pháp dicu trị đục TTT cỉưực nhiều người lựa chọn là lấy TÍT đục, đặt TTTNT.
Khác với các loại đục TTT khác, đục ‘ITT sau viêm MBĐ thường kèm theo dính mống mắt vào mặt trước ITT với các mức độ khác nhau: mức độ nhẹ (khi làm giãn đổng tử mới thấy được) cho tới mức độ nặng (như dính vào bao trước TIT, kcm Iheo màng xuâì liôì hoặc tân mạch lieu mỏng mắt và nhiều (rường hợp đổng tử co nhỏ chí khoáng 0,5mm). Vì vậy phẩu thuât lấy TTĨ và dặt TỈTNT ở những BN cỏ liền sử vicm MBD phức tạp lum, khó khản hơn rấi nhiều so với đục TTT ui à 1851, không chí trong .Ịuá trình phẫu thuật mà còn những biến chứng có the xáy ra sau phẫu lliuậl như viêm MBĐ tái phát, viêm nội nhàn, bong võng mạc, mất chức năng…
Ngày nay trcn thế giới cũng như ở Việt Nam, phirưng pháp điều trị đục TTT dược các nhà nhãn khoa ưa chuộng hơn cả là lấy TTT đục, đật TTTNT.
Ricng dối với đục TTT sau viéiiì MBĐ, có rất nhiều ý kiến khác nhau trong cliéu trị. Từ ihập ký 80 của the kì trước, nhiều nhà nhàn khoa cho rằng dây là nv*t Irong những chống chi định dặt ‘ITTNT {3ị; 1181; [381; [63]; 1371; 174ị. Rất nhiều mẫu ‘ITTNT đà ra dời nhằm mục dích lạo khá năng tương hợp sinh học tốt Irong mắt, iỉiảm phản ứng viêm xuống tôi thiểu… Song chực tc trcn lâm sàng, TITNT khi dược dặt vào irong mát và những chấn thương trong phẫu thuật sẽ kéo theo một loạt phân ứng vicm của tế bào và các mô tiếp cận với nó. Điều này thật vô cùng bất lợi cho những mắt đã bị viém MBĐ dục TTT cho dù có ứ trong giai đoạn đã ổn định. Có lè vì vậy mà một số tác giá cho rằng chỉ nên lấy TTT trong hao CỈƠI1 thuần 141; Ị89|; [98], hoặc ngoài hao [22]; [281; [511; |l I8|. Cố ý kiến khuycn nên dật TTFNT trong rãnh thổ mi [24]; [95]; [96] và gần đây nhất khá nhiồu tác giả đâ tiến hành phẫu thuật lấy TTT ngoài bao, đạt TTTNT trong túi bao TTT [13]; [31]; [34]; [60]; [78]; [96]; [120]. Kết quả cho thấy thị lực sau phẫu thuật thường tăng hơn trước với tỉ lô tương tự giữa các tác giả. Măc dầu vậy, sau phẫu thuật nhiổu người vẫn đưa ra nhận định: lấy TTT ngoài bao, đặt TTTNT đã từng được coi là chống chỉ định ở mát đục TTT sau viôm MBĐ vì nguyôn nhân viêm MBĐ khó xác định, bẽnh dẻ tái phát khi đưa TTTNT vào nhãn cầu. Nhiểu vấn đề khác như đổng tử co nhò, không hoạt đồng có thể làm cho phău thuật khó khăn hem và dẻ thất bại. Những phàn ứng hậu phẫu và biến chứng thì không thổ lường trước được. Đây cũng chính là điều mà các nhà nhãn khoa rất lo lắng khi tiến hành phẫu thuật đạt TTTNT trôn mát đục TTT sau viôm MBĐ.
Song nếu khổng được điéu trị, đục TTT trôn mắt viêm MBĐ lấl yếu sẽ dẫn BN đến mù loà, teo nhãn cẩu thậm chí có thể tăng nhãn áp, gây đau nhức, phải khoét bỏ nhãn cẩu…
Như vậy vấn đồ là nôn hay khồng nôn đạt TTTNT cho những mắt đục TTT sau viêm MBĐ. Ở Viôt Nam cũng đã có mội vài tác giả tiến hành phẫu thuật lấy TTT đục và đặl TTTNT sau viôm MBĐ nhưng số liôu còn rất ít, chưa có một báo cáo nào vổ vấn đé này. VI vậy chúng tôi thực hiôn công trình nghiên cứu này mang tôn: Phău thuât đạt TTTNT trôn mắt đục TTT bênh lí sau viôm MBĐ với mục liêu :
1. Nghiên cứu một số phương pháp phẫu ihuật dạt TTTNT trôn mắt đục TTT sau viêm MBĐ, các biốn chứng trong, sau phău thuật và cách xử lý.
2. Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật và kết quả lâu dài, trôn cơ sở đó đổ xuất chi ciịnh và chống chi định cùa phảu thuật.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích