NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT ĐẶT VAN DẪN LƯU AHMED TRONG GLÔCÔM TRẺ EM TÁI PHÁT

NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT ĐẶT VAN DẪN LƯU AHMED TRONG GLÔCÔM TRẺ EM TÁI PHÁT

NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT ĐẶT VAN DẪN LƯU AHMED TRONG GLÔCÔM TRẺ EM TÁI PHÁT

PHẠM THỊ THỦY TIÊN, LÊ MINH TUẤN
GIỚI THIỆU
Glôcôm trẻ em là bệnh lý có thể gây mù và thường ít đáp ứng với điều trị thuốc. Theo y văn, phẫu thuật tại góc như mở góc hoặc mở bè có tỉ lệ thành công từ 50% đến 77% cho điều trị glôcôm bẩm sinh nguyên phát, nhưng có rất nhiều trẻ cần phải dùng đến nhiều phẫu thuật khác mới có thể kiểm soát được nhãn áp. Cắt bè củng mạc có tỉ lệ thành công ngắn do đặc điểm hình thành sẹo quá nhanh ở trẻ em. Tại bệnh viện Mắt TPHCM, nghiên cứu hồi cứu
năm năm (2004-2008) của phẫu thuật cắt bè củng mạc cho 106 mắt bị glôcôm bẩm sinh nguyên phát và glôcôm thứ phát cho thấy tỉ lệ thành công giảm từ 72% ở năm đầu tiên chỉ còn 31% sau năm năm [1].
Hủy thể mi chỉ được áp dụng cho những mắt đã thất bại với các loại điều trị khác và có thị lực thấp vì biến chứng teo nhãn cao.
Năm 1973, Molteno là người sử dụng đầu tiên van dẫn lưu cho glôcôm trẻ em. Từ đó tới nay rất nhiều báo cáo của các tác giả khác nhau trên thế giới sử dụng van dẫn lưu để điều trị glôcôm trẻ em với tỉ lệ thành công từ 44% đến 95% với nhãn áp dưới 21mmHg. Van dẫn lưu glôcôm Ahmed (New World
Medical, Inc., Rancho Cucamonga, California, USA) là loại van có kháng lực được thiết kế để tránh gây nhãn áp thấp mà vẫn duy trì nhãn áp trong mắt từ 8- 12mmHg. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng van Ahmed trong glôcôm tái phát ở trẻ em trên thế giới cho kết quả rất khích lệ [12]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của việc đặt van Ahmed trong glôcôm trẻ em Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Thủy Tiên, Trang Thanh Nghiệp, Mai Đăng Tâm (2010), “Đánh giá hiệu quả phẫu thuật cắt bè củng mạc trong glôcôm trẻ em”, Tạp chí nhãn khoa, 7, tr.35-42.
2. Phạm Thị Thủy Tiên, Trang Thanh Nghiệp, Trần Công Toại (2012), “Đánh giá hiệu quả ứng dụng ghép củng mạc đông khô trong phẫu thuật đặt van Ahmed”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 16 (1), tr.69-76.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment