Nghiên cứu sự biến đổi chế tiết nước mắt và bề mặt nhãn cầu trên những đối tượng có sử dụng máy vi tính
Nghiên cứu được tiến hành theo các bước như trong đề cương nghiên cứu:
* Nghiên cứu trên 400 đối tượng (800 mắt) của những người Việt nam từ 18 đến 60 tuổi không mắc bệnh có ảnh hưởng đến các chỉ số nước mắt và chưa làm việc trên máy vi tính. Đã tiến hành test đo chế tiết nước mắt (Schirmer I,II), test đo thời gian phá huỷ phim nước mắt (TBUT). Kết quả thu được như sau:
– Test Schirmerl: Tuổi 18-60: 19,93+4,48mm (trong đó, từ 18-29t: 24,3+6,7mm; 30-39t: 20,41+5,4mm; 40-49t: 16,51+4,4mm; 50-60t: 15,31+3,0mm)
– Test SchirmerlI: Tuổi 18-60: 10,91+3,88mm (trong đó, từ 18-29t: 14,65+5,2mm; 30-39t: 12,13+3,3mm; 40-49t: 9,56+1,0mm; 50-60t: 7,32+2,9mm)
– Test TBUT: Tuổi 18-60: 14,12+2,96 giây (trong đó, từ 18-29t: 13,92+3,30 giây; 30-39t: 14,96+3,30 giây; 40-49t: 13,54+2,30 giây; 50-60t: 13,98+3,10 giây)
* Nghiên cứu trên 448 đối tượng (896 mắt) thường xuyên làm việc trên máy vi tính tại một số công ty trên địa bàn Hà nội, tuổi từ 22 đến 55(28,06+5,74), không bị các bệnh gây ảnh hưởng đến các chỉ số nước mắt. Đã tiến hành đo chế tiết nước mắt (test SchirmerI,II), thời gian phá huỷ phim nước mắt (TBUT), độ toàn vẹn của tế bào biểu mô kết giác mạc (test với Rose bengal và Fluorescein). Kết quả thu được như sau:
– Giá trị trung bình của test SchirmerI và II ở mức bình thường: 12,74+8,92mm và 8,82+6,01mm. Tuy nhiên, khi phân các mức độ tuổi khác nhau thì chúng tôi nhận thấy tuổi càng cao thì chế tiết nước mắt càng giảm (Test SchirmerI: 20-29t: 13,41+8,94mm; 30-39t: 11,09+8,70mm; 40-49t: 9,36+7,41mm; 50-55t: 7,87+7,83mm. Test SchirmerII: 20-29t:
9,04+6,09mm; 30-39t: 8,17+5,85mm; 40-49t: 8,68+5,02mm; 50-55t: 7,00+5,18mm).
– Giá trị trung bình của test TBUT ở dưới mức bình thường: 7,90+3,50 giây
– 16,98 – 16,9% số đối tượng bắt đầu có sự biến đổi của tế bào biểu mô kết giác mạc (test Rose bengal và Fluorescein ở mức độ 1 và 2).
– Triệu chứng chủ quan thường gặp là mỏi mắt – 80,80%; nhìn mờ – 59,15%; nhức mắt – 51,34%; chảy nước mắt – 32,37%.
– Có sự liên quan giữa chế tiết nước mắt toàn phần (Schirmerl) và chế tiết nước mắt cơ bản (SchirmerlI) với r=0,57. Giữa chế tiết nước mắt và thời gian phá huỷ phim nước mắt chưa thấy có sự liên quan.
1.2. Ý nghĩa khoa học của kết quả nghiên cứu:
Nghiên cứu đi sát với mục tiêu đã đề ra.
Đây là một nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu cho thấy làm việc thường xuyên trên máy vi tính thực sự có ảnh hưởng đến mắt (sự xuất hiện của các triệu chứng chủ quan như mỏi mắt, nhức mắt, nhìn mờ, chảy nước mắt; cũng như sự biến đổi của một số chỉ số nước mắt: TBUT ở dưới mức bình thường, 16,8 -16,9% số đối tượng có sự biến đổi của tế bào biểu mô kết giác mạc). Đặc biệt, tuổi rất có ảnh hưởng đến những sự biến đổi này. Kết quả này cho thấy cần thiết phải thường xuyên khám định kỳ cho những đối tượng làm việc liên tục trên máy vi tính để phát hiện kịp thời các biểu hiện bất thường về mắt và từ đó đề ra những biện pháp giải quyết.
1.3. Ý nghĩa thực tiễn và khả năng ứng dụng kết quả khoa học:
Đây là một nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Kết quả thu được là một cảnh báo cho những đối tượng thường xuyên làm việc trên máy vi tính. Từ kết quả này có thể đưa ra kết luận về những tác hại của việc sử dụng liên tục máy vi tính và hậu quả là giảm thị lực, khô mắt, mỏi mắt, đau nhức mắt. Trên cơ sở đó, các bác sĩ nhãn khoa cũng như các bác sĩ bệnh nghề nghiệp có thể đề ra những biện pháp phòng ngừa cũng như các phương pháp điều trị kịp thời và đúng đắn đối với các đối tượng làm việc thường xuyên trên máy vi tính. Từ đó, sẽ vừa bảo vệ được sức khoẻ cho người lao động; vừa giúp nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, khai thác tối đa tiện ích của máy vi tính trong các ngành nghề lao động.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích