NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN PHỐI HỢP DUY TRÌ MÊ BẰNG SEVOFLURAN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI XOANG
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN PHỐI HỢP DUY TRÌ MÊ BẰNG SEVOFLURAN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI XOANG
Nguyễn Thị Hoài Nam(1), Nguyễn Văn Chừng(2), Trần Thị Xuân Mai(1)
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng MNTQ phối hợp duy trì mê bằng Sevofluran trong phẫu thuật nội soi mũi xoang
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, mô tả cắt ngang trên 90 bệnh nhân ASA 1, 2 được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm NKQ và nhóm MNTQ. So sánh các đặc điểm dịch tể, kết quả thay đổi về huyết động, hô hấp, tai biến và biến chứng giữa 2 nhóm.TG NC từ 7.2008 đến 9.2009 tại BV Đại học Y Dược TP HCM.
Kết quả: 2 nhóm tương đối đồng nhất về dịch tể nhưng thời gian đặt MNTQ nhanh hơn NKQ (14,93 ± 6,06 giây so với 26,11 ± 13,47 giây; p<0,001); sau khi kết thúc cuộc mổ TG rút MNTQ ngắn hơn NKQ (6,84 ± 3,06 phút so với 22,66 ± 6,27 phút; p< 0,001). Mạch, HA TT, HATTr, HA ĐMTB sau đặt và sau rút NKQ 1 phút biến đổi nhiều hơn so với MNTQ (p<0,05) Như vậy kỹ thuật đặt MNTQ đơn giản, dễ thực hiện hơn NKQ và ít gây xáo trộn huyết động hơn. Áp lực đường thở, SpO2, ETCO2, khí máu động mạch không khác biệt giữa 2 nhóm (p>0,05). Kết quả phân loại nhiễm máu và chất tiết MNTQ):0đ = 42(93,34%), 1 đ= 3(6,66%), 2đ và 3đ= 0% chứng minh MNTQ có độ hở thấp, bảo vệ được đường thở trong PT NSMX. Tai biến khi đặt ống, khi rút ống và sau rút ống nhóm MNTQ thấp hơn nhóm NKQ. Ns họng sau mổ 24giờ: Phù nề sụn phễu: NKQ 57,6%, MNTQ 13, (p< 0,001), sung huyết sụn phễu: NKQ 13,3%, MNTQ 4,4% (p<0,05), tạo hạt dây thanh: NKQ 2,2%, MNTQ 0% (p>0,05).
Kết luận: MNTQ an toàn, bảo vệ được đường thở và ít tai biến hơn NKQ trong gây mê mổ nội soi mũi xoang.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất