NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC TRÊN BỆNH NHÂN MỔ TIM VỚI TUẦN HOÀN NGOÀI CƠ THỂ Ở BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC TRÊN BỆNH NHÂN MỔ TIM VỚI TUẦN HOÀN NGOÀI CƠ THỂ Ở BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC

Ở bệnh viện Việt Đức (BVVĐ), mổ tim hở dưới hạ thể nhiệt được tiến hành lần đầu tiên năm 1964 và đến năm 1965 bắt đầu mổ tim bằng tim  phổi nhân tạo. Hiện nay, nhờ trang thiết bị hiện đại và áp  dụng  kỹ  thuật  tiên  tiến,  BVVĐ là  một  trong những trung tâm phẫu thuật tim mạch lớn trong cả nước với 2 – 3 ca mổ tim với THNCT mỗi ngày.

THNCT là một hệ thống cơ học thay thế chức năng tim phổi cho phép sửa chữa những tổn thương tim trong khi làm nó ngừng đập. Vì không phải là một hệ thống sinh lý nên có thể gây ra một số tác dụng phụ trong đó có ảnh hưởng lớn đến các tế bào máu và rối loạn yếu tố đông máu. Ngoài những chấn thương bởi cuộc mổ, do máu phải lưu thông tạm thời qua một hệ thống nhân tạo cộng với tác động của thuốc sử dụng trong tim phổi máy, các thành phần máu và chức năng đông cầm máu phải được kiểm soát chặt chẽ. Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu:

1. So sánh số lượng  hồng cầu, tỷ lệ huyết sắc  tố,  hematocrit,  số  lượng  bạch  cầu,  tiểu cầu,   tỷ   lệ   prothrombin,   thời   gian   throm- boplastin từng phần hoạt hoá.

2. Nồng độ fibrinogen trước và sau mổ trên các bệnh nhân mổ tim với THNCT .

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

Tất cả những bệnh nhân được mổ tim với THNCT tại BVVĐ trong khoảng thời gian từ tháng 12/2005 đến tháng 3/2006. Loại trừ các bệnh nhân có bệnh lý của hệ thống tạo máu và có rối loạn đông máu trước mổ.

Tất  cả  các  bệnh  nhân  không  sử  dụng  các thuốc chống đông, thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu và các thuốc chống viêm không steroid trong vòng 1 tuần trước khi mổ.

2. Phương pháp

Mô tả cắt ngang.

3. Phương pháp tiến hành

Tất cả các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu đều được làm xét nghiệm công thức máu và các xét nghiệm đông máu cơ bản ở các thời điểm: Trước mổ và ngay sau khi ca mổ kết thúc.

Xét nghiệm  công  thức máu  được thực hiện trên máy đếm tế bào tự động 24 chỉ số với 5 thành phần  công thức bạch cầu: XT – 1800i của hãng Sysmex (Nhật Bản).Các xét nghiệm đông máu: Thời gian prothrom- bin (PT: Prothrombin time), thời gian throm- boplastin từng phần hoạt hoá (APTT: Activated partial thromboplastin time), định lượng Fibrinogen được thực hiện trên máy phân tích đông máu tự động CA – 1500 của hãng Sysmex (Nhật Bản).

Các số liệu thu thập được nhập, xử lý và phân tích trên chương trình SPSS (10.0).

Tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) gây nên tương tác giữa các yếu tố của máu và thành mạch tổng hợp làm rối loạn các thành phần máu và tình trạng đông máu. Mục tiêu: (1) So sánh số lượng hồng cầu, tỷ lệ huyết sắc tố, hematocrit, số lượng bạch cầu, tiểu cầu, tỷ lệ prothrombin, thời gian thromboplastin từng phần hoạt hoá. (2) Nồng độ fibrinogen trước và sau mổ trên các bệnh nhân mổ tim với THNCT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 70 bệnh nhân gồm 35 bệnh  tim bẩm  sinh và  35 bệnh tim mắc  phải. Phương pháp mô tả cắt ngang. Kết quả: Số lượng hồng cầu, tỷ lệ huyết sắc tố và hematocrite sau mổ giảm rõ rệt so với lúc trước mổ. Số lượng bạch cầu trung tính tăng đáng kể trong khi các dòng lympho, mono cũng như bạch cầu hạt ưa axit và bazơ đều giảm. Số lượng tiểu cầu giảm có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ prothrombin và fibrinogen đều giảm, song song với thời gian thromboplastin từng phần hoạt hoá kéo dài. Kết luận: Sau mổ  với  THNCT, hồng  cầu  và tiểu cầu giảm, bạch cầu trung tính tăng, tình trạng giảm đông rõ.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment