Nghiên cứu sự thay đổi tính thấm màng bụng trong điều trị lọc màng bụng liên tục ngoại trú

Nghiên cứu sự thay đổi tính thấm màng bụng trong điều trị lọc màng bụng liên tục ngoại trú

Lọc màng bụng (LMB) là một phương pháp điều  trị thay thế  thận  suy đã  được  áp  dụng  tại Việt Nam từ những năm 1970 và trong những năm  gần  đây  LMB liên  tục  ngoại  trú  (CAPD) được  áp  dụng  rộng  rãi  trong điều  trị suy thận mạn giai đoạn cuối.
Tính thấm màng bụng giữa các bệnh nhân là khác nhau, phụ thuộc vào cấu trúc giải phẫu của màng bụng [4]. Theo các nghiên cứu đánh giá tại các trung tâm CAPD trên thế giới thì tính thấm màng bụng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lọc máu như: siêu lọc; huyết áp; dinh dưỡng… Do vậy việc đánh giá tính thấm màng bụng cũng như theo dõi  sự  thay đổi  của  nó trong quá  trình điều  trị ở những  bệnh  nhân  CAPD là  rất  quan trọng,  giúp cho bác sĩ lâm sàng điều chỉnh hợp lý chế độ lọc. Chỉ số PET (Peritoneal Equilibration Test) là chỉ số được  áp  dụng  rộng  rãi  tại  các  trung tâm  CAPD trên  thế  giới  để  đánh  giá  tính thấm  màng  bụng cho các bệnh nhân này. Chỉ số này dựa vào lượng chất tan được khuếch tán qua màng bụng tại các thời điểm khác nhau [6; 7]. Hiện nay tại Việt Nam số bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối điều trị bằng phương pháp CAPD ngày càng tăng tại một số bệnh viện. Để nâng cao chất lượng điều trị, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
1.    Nghiên cứu tính thấm màng bụng ở bệnh nhân lọc màng bụng liên tục ngoại trú thông qua việc đánh giá chỉ số PET.
2.    Nghiên  cứu  sự  thay  đổi  của  tính  thấm màng  bụng  sau 6 tháng  điều  trị lọc  màng  bụng liên tục ngoại trú.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Là  44 bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  suy thận mạn giai đoạn cuối bắt đầu điều trị bằng phương
pháp lọc màng bụng liên tục ngoại trú (CAPD) tại khoa Thận Tiết niệu bệnh viện Bạch Mai từ 10/2006 – 10/2007.
2.    Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả, tiến cứu và theo dõi dọc 6 tháng.
    Cách thức tiến hành:
–    Các bệnh nhân được chuẩn bị theo một quy trình chung, tối  ngày  hôm  trước  các  bệnh  nhân được cho dịch lọc nồng độ 2,5%, vào trong ổ bụng và ngâm dịch trong thời gian 8 – 12 tiếng.
–    Sáng  ngày  hôm  sau bắt  đầu  đánh  giá:  tháo dịch cũ ra và thay dịch 2,5% mới vào, thời điểm cho hết dịch mới vào ổ bụng được tính là T0 ; sau ngâm 2 tiếng là T2 và sau ngâm 4 tiếng là T4.
–    Lấy dịch xét nghiệm (tại khoa Hoá sinh, bệnh viện Bạch Mai) định lượng ure, creatinin, glucose tại các thời điểm T0; T2 và T4.
–    Lấy   máu   xét   nghiệm   định   lượng   ure; creatinin; glucose tại thời điểm T2.
Quy trình nghiên cứu và các xét nghiệm nói trên  được  tiến  hành  sau 1 tháng  bệnh  nhân  bắt đầu được nhận vào điều trị lọc màng bụng (M1) và
sau 6 tháng điều trị.
Nghiên cứu tính thấm màng bụng ở bệnh nhân lọc màng bụng liên tục ngoại trú và theo dõi sự thay đổi tính thấm sau 6 tháng điều trị. Đối tượng và hương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu, mô tả và theo dõi dọc 6 tháng được tiến hành từ tháng 10/2006 đến tháng 10/2007 tại khoa Thận tiết niệu bệnh viện Bạch Mai bao gồm 44 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được điều trị bằng phương pháp lọc màng bụng liên tục ngoại trú (CAPD) và tính thấm màng bụng được đánh giá bằng chỉ số PET (Peritoneal Equilibration Test). Kết quả và kết luận: tỷ lệ nam/nữ là 19/25; tuổi trung bình 42,8 ± 13,5; BMI trung bình 19,5 ± 2,1. Đánh giá tính thấm màng bụng bằng chỉ số PET tại thời điểm M1 (sau 1 tháng điều trị) và M6 (sau 6 tháng điều trị) cho thấy số bệnh nhân tính thấm màng bụng trung bình cao chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), tiếp đến là loại cao (27,3%), trung bình thấp (18,2%) và thấp (5%). Sau 6 tháng điều trị các chỉ số: tỷ lệ các lọai màng bụng, giá trị trung bình PET, siêu lọc, lượng protein mất qua dịch lọc… không có sự thay đổi (p > 0,05).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment