Nghiên cứu sự xuất hiện của Myoíibroblastes trên tiêu bản sinh thiết của bệnh nhân ghép thận.
Một trong các nguyên nhân gây mất chức năng quả thận ghép là xơ thận. Myofibroblastes (aSMA) có vai trò hoạt hoá các tế bào xơ. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá sự xuất hiện của aSMA trên 56 tiêu bản của 15 bệnh nhân ghép thận ở bệnh viện Rangueil, Pháp từ 1/1/2006 đến 31/12/2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi chức năng bị tổn thương thì sự xuất hiện của aSMA cao hơn hẳn nhóm tháo cặp clamp trong phòng mổ (p < 0,01). Tỷ lệ xuất hiện aSMA cao nhất ở nhóm nguyên nhân khác. Sựxuất hiện của aSMA giảm ở bệnh nhân thì 5 năm sau bệnh nhân bị chạy thận nhân tạo. Tóm lại, khi thận ghép bắt đầu bị tổn thương thì xuất hiện aSMA và aSMA tăng lên cao khi chức năng thận thay đỗi và khi aSMA giảm thì tiên lượng xấu cho quả thận ghép.
Ghép thận là một tình trạng phức tạp với các tổn thương cấp và mạn tính liên quan tới các cơ chế miễn dịch nhưng cũng có thể do các tổn thương khác như nhiễm trùng và ngộ độc thuốc. Sinh thiết thận ghép giúp cho các thông tin chính xác trong việc chẩn đoán, đánh giá độ năng của tổn thương thận và tiên lượng trong đáp ứng điều trị với thuốc do đó sinh thiết thận là việc làm rất cần thiết.
Kết quả giải phẫu bệnh có thể cho biết thải ghép cấp (cần phải điều trị đặc hiệu) hoặc thải ghép mạn (cần phân biệt các nguyên nhân khác có thể gây tổn thương viêm, xơ thận).
Sự xuất hiện xơ thận có mối liên quan chặt chẽ với suy thận mạn giai đoạn cuối [11]. Ngày nay một số cơ chế tế bào và phân tử dẫn tới xơ thận đã được làm sáng tỏ: người ta tìm thấy thành phần viêm được đặc trưng bằng thâm nhiễm các tế bào monocyt và sự xuất hiện các aSMA gây ra hoạt hoá các tế bào xơ dẫn tới quá trình chuyển dạng épithélio-mésenchymateuse [8]. Các aSMA là nguồn chủ yếu sản xuất các chất nền ngoài tế bào và sự tích luỹ của các chất nền này đã có thể điều trị được bằng gen [2]. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về sự xuất hiện aSMA trên thận ghép ở người. Đề tài này được tiến hành với mục tiêu: Nghiên cứu sự xuất hiện của Myoíibroblastes trên tiêu bản sinh thiết của bệnh nhân ghép thận.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm bệnh: Gồm 56 tiêu bản sinh thiết thận của 15 bệnh nhân ghép thận được theo dõi tại bệnh viện Rangueil, Toulouse, Pháp. Tất cả các bệnh nhân này đều có phản ứng đọ chéo (crossmatch) âm tính lúc ghép.
Những bệnh nhân này được chia thành các nhóm :
+ Nhóm «tháo cặp clamp»: Nhóm sinh thiết ngay sau khi ghép thận (lúc tháo cặp clamp).
+ Nhóm «thải ghép»: Nhóm sinh thiết khi bệnh nhân bị thoái hóa chức năng thận do thải ghép.
+ Nhóm «nguyên nhân khác»: Nhóm sinh thiết khi bệnh nhân bị thoái hóa chức năng thận do các nguyên nhân không thải ghép (hoại tử ống thận cấp, viêm thận do BK virus, khi nghi ngờ bệnh thận mạn của quả thận ghép)
+ Nhóm «bình thườngyy. Nhóm sinh thiết thường quy lúc 6 tháng hoặc 1 năm mặc dù không có thay đổi chức năng thận.
Chúng tôi theo dõi tiến triển của sự xuất hiện aSMA trên từng bệnh nhân, và đều được so sánh với nhóm chứng.
Tất cả bệnh nhân đều được dùng thuốc ức chế miễn dịch ban đầu gồm tacrolimus (hoặc ciclosporine A) hoặc/và mycophénolate mofétil và/hoặc sirolimus và prednisolone cùng với thuốc ức chế miễn dịch ban đầu gồm huyết thanh anti-lymphocytaire, polyclo- nal (thymoglobuline) hoặc monoclonal anti- CD25.
Nhóm chứng: gồm 15 tiêu bản sinh thết của tiêu bản thận vùng lành trong tiêu bản cắt thận do u thận.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả
Các chỉ số nghiên cứu : tuổi, giới, ngày ghép, nguồn gốc quả thận ghép (người cho sống, người cho chết), ngày và nguyên nhân lọc máu, huyết áp lúc sinh thiết thận, tỷ lệ kháng thể kháng HLA (quá khứ và hiện tại), tỷ lệ hòa hợp HLA A,B và DR, thời gian trở lại chức năng thận, thuốc điều trị thải ghép và thuốc chống tăng huyết áp.
Nồng độ creatinin máu tính bằng đơn vị ụmol/l, được làm theo phương pháp Jaffé.
Đo nồng độ các thuốc Ciclosporine A, Tacrolimus và Sirolimus được thực hiện tại phòng xét nghiệm độc tố của bệnh viện Pur- pan (Toulouse, Pháp) bằng kỹ thuật miễn dịch enzym (immuno-enzymatiques) tự động.
Miễn dịch hóa học
Phát hiện aSMA được thực hiện bằng các kháng thể đặc hiệu. Khử mầu cho tất cả các marker bằng hématoxyline. Sau đó được khử paraffin bằng toluen và dùng cồn với nồng độ thấp dần (100, 95, 75%) để làm giảm khô, sau đó được cố định bằng peroxydases nội sinh và cố định các vị trí kháng nguyên không đặc hiệu. Các myofibroblastes được phát hiện nhờ các kháng thể đặc hiệu đơn dòng chống lại alpha smooth actine (SMA) của tế bào cơ trơn người (Dako EPOS meth- od, U7033; DAKO S.A., Trappes, Pháp). Cuối cùng, các tiêu bản được ủ với kháng thể thứ phát (Envision labelled polymer HRP)
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích