Nghiên cứu tác dụng làm mềm, mở cổ tử cung và gây chuyển dạ của Misoprostol
Đâ từ lâu, một vấn đề khó khăn trong thực hành sản phụ khoa là làm thế nào để có thể dẻ dàng nong rông CTC khi cần tiến hành thủ thuật phá thai và làm thế nào để CTC có thể xoá và mở dẻ dàng khi cần gây một cuộc chuyển dạ chủ động. Để giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước đã nghiôn cứu nhiều phương pháp làm mềm, mở CTC bằng cơ học, hoá học….Một trong những phương pháp đó là sử dụng các dản chất Prostaglandin. Đây là một phương pháp mới, có hiộu quả cao. Tuy nhiôn, kinh nghiệm sử dụng thực tế lâm sàng đối với phụ nừ Việt Nam còn hạn chế và chúng ta còn ít các công trình nghiên cứu về vấn đé này.
Từ nủm 1913, Battez và Boulet nhận thấy tinh chất của tuyến tién liệt có thể gây hạ huyết áp trên chó. Đến năm 1931, Kurzrok và Lieb cho biết tinh dịch có thể làm giãn hoặc co các thớ cơ từ cung người. Năm 1933, Goldblatt và Von Euler phát hiện khả năng làm co cơ trơn và hạ huyết áp của tinh dịch. PG lần đầu tiôn được Von Euler mô tả và đặt tên năm 1935. Sau khi Bergstrom và cộng sự (1962) làm sáng tỏ cấu trúc của các PG đầu tiên; Corey và cộng sự của hàng Upjohn tổng hợp được chúng (1969) thì mối quan tâm tới nhóm hợp chất này mới trở nên rộng rãi [33], [34],[55].
Dựa vào những tính chất dược lý đặc biệt mà các PG đang được nghiên cứu ứng dụng trên lâm sàng. Trong chiến lược KHHGĐ, phá thai khồng được coi là một biện pháp tích cực để điều hoà sinh sản và không được khuyến khích. Tuy nhiôn, trong nhừng năm qua tỷ lệ nạo phá thai ở nước ta vẫn còn cao, các tai biến do phá thai còn nhiều. Vì vậy, việc nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, cải tiến phương pháp đang là một yêu cầu cấp thiết. Đối với các irường hợp thai nhỏ có thể sử dụng kỹ thuật hút chân không, các thai lớn đều phải nong CTC đổ nạo, gắp hoặc gây sẩy thai. Các PG với tác dụng trực tiếp làm mém, mở CTC sẽ giúp thủ thuật phá thai dề dàng, thuận lợi và an toàn.
Dựa vào tác dụng gủy co bóp tử cung và làm mém, mở CTC, các PG đang được nghiên cứu để gây chuyển dạ đẻ. Trong thực tế làm sàng, nhiều trường hợp thầy thuốc phải tác động gây chuyển dạ để chủ động lấy thai ra nhằm đảm bào sức khoẻ cho bà mẹ hoặc cùa trẻ sơ sinh sau này. Các phưưng pháp gây chuyển dạ nhàm tạo ra các CCTC, làm xoá mở CTC, làm ngôi thai lọt xuống và sổ ra ngoài theo đường âm đạo. Được coi là gây chuyển dạ thành công nếu điều khiển được diễn biến cuộc chuyển dạ tương tự như cuộc chuyổn dạ tự nhiên. Thất bại (rong viộc gây chuyển dạ sẽ gây ảnh hường xấu tới tâm sinh ỉý cho sản phụ, nguy hiổm đến thai nhi, làm tảng tỷ lệ mổ lấy thai và tảng các tai biến trong cuộc đẻ. Các phương pháp gây chuyển dạ vẫn được sử dụng như bấm ối, truyền oxytocin…khồng phải bao giừ cùng cho kết quả mong đợi.
Viộc phát hiện ra PG và những ưu điểm cùa nó đã làm thay đổi phương pháp gây chuyển dạ theo một chiều hướng mới. Dùng PG gây chuyển dạ có nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác vì nó vừa gây được CCTC vừa làm CTC chín muồi. Hiộn nay, một số chế phẩm PG như misoprostol (Cytotec) được sừ dụng để phá thai hoặc gây chuyển dạ, dựa trên tác dụng gây co bóp tử cung và làm chín muồi CTC [56], [65], [103], [105], [109].
Nghiên cứu tác dụng tích cực và hạn chế các tác dụng bất lợi của các PG là rất cần thiết. Nó quyết định sự thành bại trong điều trị.
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tế lâm sàng đã nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài “NGHIÊN cứu TÁC DỤNG LÀM MỂM, mò cổ TỬ CUNG VÀ GÂY CHUYỂN DẠ CỦA MISOPROSTOL” .
I
CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
•
/- Đánh giá hiệu quả làm mém, mở CTC của misoprostol trong ba tháng đầu của thai kỳ.
2- Đánh giá hiệu quả gáy sẩy thai của misoprostol trong ba tháng giữa của thai kỳ.
3- Đánh giá hiệu quả gáy chuyển dạ bằng misoprostol trong ba tháng cuối của thai kỳ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích