NGHIÊN CỨU THANG ĐIỂM XUẤT HUYẾT NÃO TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN XUẤT HUYẾT NÃO TỰ PHÁT DO TĂNG HUYẾT ÁP

NGHIÊN CỨU THANG ĐIỂM XUẤT HUYẾT NÃO TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN XUẤT HUYẾT NÃO TỰ PHÁT DO TĂNG HUYẾT ÁP

 Xuất huyết não chỉ chiếm khoảng 10-15% tất cả các trường hợp đột quỵ nhưng có tỷ lệ tử vong cao nhất 35-52% trong tháng đầu, phần lớn trong số đó tử vong trong hai ngày đầu*1’5! Mặc dù có những tiến bộ trong điều trị nhồi máu não và xuất huyết dưới nhện nhưng vẫn chưa có phương pháp điều trị nào chứng minh cải thiện được dự hậu sau xuất huyết não. Tại khoa Thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy, số liệu thống kê năm 1997, tỷ lệ tử vong xuất huyết não là 33,3% (100/300) và 75% tử vong trong 3 ngày đầu nhập viện(15). Tiên lượng xuất huyết não là một vấn đề rất được quan tâm hiện nay, giúp chọn lựa phác đồ điều trị thích hợp, phân nhóm bệnh nhân trong thử nghiệm lâm sàng, so sánh kết quả điều trị cũng như đánh giá hiệu quả của các ứng dụng mới trong điều trị xuất huyết não. Tiên lượng tử vong 30 ngày ở bệnh nhân xuất huyết não tùy thuộc vào các yếu tố như tuổi, mức độ tri giác, áp suất mạch, huyết áp trung bình, thể tích ổ xuất huyết, máu chảy vào não thất, vị trí ổ xuất huyết, đường huyết. Chúng tôi nghiên cứu đánh giá tiên lượng tử vong theo thang điểm xuất huyết não (XHN) và sự phục hồi của bệnh nhân trong 30 ngày sau xuất huyết não.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang 148 bệnh nhân chẩn đoán xuất huyết não tại Bệnh viện Nhân dân 115 Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04/ 2009 đến tháng 06/2009. Tất cả bệnh nhân được chụp CT scan sọ não ngay khi được nhập vào khoa Cấp cứu. Loại trừ các trường hợp xuất huyết não do chấn thương đầu, vỡ dị dạng mạch máu não, xuất huyết não trong u, nhồi máu não chuyển dạng xuất huyết, xuất huyết não thất hoặc khoang dưới nhện đơn thuần, xuất huyết não trên bệnh nhân dùng thuốc tiêu sợi huyết rối loạn đông máu và xuất huyết não kèm theo bệnh lý nội khoa nổi bật có thể thúc đẩy tử vong như suy tim giai đoạn cuối, suy thận mạn nặng, nhồi máu cơ tim, xơ gan.
-Vị trí ổ xuất huyết: được chia thành 2 nhóm: (1) dưới lều và (2) trên lều. Thể tích ổ xuất huyết được tính theo công thức V = ABC/2, trong đó A là đường kính ngang lớn nhất của lát cắt có ổ xuất huyết lớn nhất, B là đường kính dọc lớn nhất đo vuông góc với A trên cùng 1 lát cắt có ổ xuất huyết lớn nhất và C là tổng số lát cắt có chứa máu. Thể tích ổ xuất huyết được tính bằng cm3 (1cm3 = 1ml). Thể tích ổ xuất huyết được chia thành 2 mức: (1) <30 ml và (2) >30ml.
– Điểm XHN lúc nhập viện: được tính theo bảng viết sẵn với năm thông số điểm hôn mê Glasgow, thể tích ổ xuất, máu chảy vào não thất, vị trí xuất huyết dưới lều và tuổi. Điểm nhỏ nhất là 0 và lớn nhất là 6. Điểm Glasgow 3-4: điểm 2; 5-12: điểm 1 và 13-15: điểm 0.
Thể tích ổ xuất huyết >30 ml điếm 1,<30 ml điểm 0. Máu chảy vào não thất có điểm 1, không điểm 0. Vị trí xuất huyết dưới lều có điểm 1, không điểm 0. Tuổi >80 điểm 1, dưới 80 điểm 0.
-Tiền sử tăng huyết áp và quá trình theo dõi điêu trị: theo Tổ chức Y tế Thế giới, tăng huyết áp là khi bệnh nhân đang được điều trị bằng thuốc hạ áp hoặc đã ghi nhận ít nhất hai lần huyết áp > 140/90 mmHg.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment